Tên tuổi của nhà thơ Nguyễn Du chắc không còn xa lạ gì với đông đảo bạn đọc yêu thơ của Việt Nam cũng như trên thế giới. Với nền kiến thức uyên thâm, ông đã sáng tạo nên những tác phẩm mang tính nhân văn, nhân đạo cao cả cùng nghệ thuật đặc sắc. Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Nguyễn Du "bất tử" cùng thời gian sau đây để cảm nhận hết cái hay, cái đẹp trong từng câu chữ bạn nhé !
1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Du
1.1 Tiểu sử:
Nguyễn Du (3 tháng 1 năm 1766 – 1820) tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc" và được UNESCO vinh danh là "Danh nhân văn hóa thế giới".
Năm 1803, khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân lương đi đón vua Gia Long, đến Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên). Sự kiện này giống như Phi Tử đời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương mà được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử.
Nhờ thời kỳ đi giang hồ, Nguyễn Du đã thông thạo các ngôn ngữ Trung Quốc, nên chỉ mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội), ông được đặc cách lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.
Năm 1805, ông được thăng Đông các học sĩ, tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.
Năm 1807, ông được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808, ông xin về quê nghỉ.
Năm 1809, ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.
Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ (chính Tam phẩm) và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh.
Năm 1814, ông đi sứ về, được thăng Lễ bộ hữu Tham tri (tòng Nhị phẩm).
Năm 1816, anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.
Năm 1820, vua Gia Long qua đời, Nguyễn Phúc Đảm nối ngôi, tức vua Minh Mạng. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch tả chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (tức 16 tháng 9 năm 1820) lúc 54 tuổi.
Năm 1824, di cốt của ông được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh.
Chân dung nhà thơ Nguyễn Du
1.2 Phong cách sáng tác:
Trong sáng tác, Nguyễn Du rất đề cao cảm xúc, là một nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững rất nhiều thể thơ của Trung Quốc thế nên hầu hết ở bất cứ thể loại thơ nào ông cũng có thể hoàn thành tác phẩm một cách xuất sắc. Nhắc đến Nguyễn Du không ai là không nhớ đến tài năng làm thơ bằng chữ Nôm và đỉnh cao trong đó là tác phẩm Truyện Kiều, đã cho thấy được tài năng truyền tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện và thơ.
Thơ và truyện của ông luôn nhiều màu sắc đặc biệt, sức sống dồi dào, đường nét phong phú. Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài.
1.3 Tác phẩm tiêu biểu:
- Ngoài Truyện Kiều nổi tiếng ra, Nguyễn Du còn để lại:
- Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh
- Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu
- Thác Lời Trai Phường Nón (bằng chữ Nôm)
- Ba tập thơ chữ Hán điển hình
- Thanh Hiên Thi Tập
- Nam Trung Tạp Ngâm
- Bắc Hành Tạp Lục
- Các bài thơ khác:
- Cảm Hứng Trong Tù
- Đầu Sông Chơi Dạo
- Đứng Trên Cầu Hoàng Mai Buổi Chiều
- Đêm Đậu Thuyền Cửa Sông Tam Giang
- Đêm Rằm Tháng Giêng Ở Quỳnh Côi
- Lưu Biệt Anh Nguyễn
- Mộ Đỗ Thiếu Lăng Ở Lôi Dương
- Miếu Thờ Mã Phục Ba Ở Giáp Thành
- Ngày Thu Gởi Hứng
- Nói Hàn Tín Luyện Quân
- Người Hát Rong Phủ Vĩnh Bình
- Ngồi Một Mình Trong Thủy Các
- Ngựa Bỏ Bên Thành
- Ngày Xuân Chợt Hứng
- Long Thành Cẩm Giả Ca
- Tranh Biệt Cùng Giả Nghị
- Qua Sông Hoài Nhớ Thừa Tướng Văn
- Xúc Cảm Đình Ven Sông
- Viếng Người Con Hát Thành La
2. Tuyển tập thơ Nguyễn Du "sống" mãi cùng thời gian
Ngoài 2 kiệt tác chữ Nôm nổi tiếng là "Truyện Kiều" và "Văn chiêu hồn", Nguyễn Du còn để lại rất nhiều bài thơ hay với nhiều đề tài, chủ đề khác nhau. Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Nguyễn Du đặc sắc sau đây để cảm nhận bạn nhé !
Tuyển tập thơ Nguyễn Du hay nhất
Sở kiến hành
Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương toạ đạo bàng
Tiểu giả tại hoài trung
Ðại giả trì trúc khuông
Khuông trung hà sở thịnh
Lê hoắc tạp tì khang
Nhật án bất đắc thực
Y quần hà khuông nhương
Kiến nhân bất ngưỡng thị
Lệ lưu khâm lang lang
Quần nhi thả hỉ tiếu
Bất tri mẫu tâm thương
Mẫu tâm thương như hà
Tuế cơ lưu dị hương
Dị hương sảo phong thục
Mễ giá bất thậm ngang
Bất tích khí hương thổ
Cẩu đồ cứu sinh phương
Nhất nhân kiệt dung lực
Bất sung tứ khẩu lương
Duyên nhai nhật khất thực
Thử kế an khả trường
Nhãn hạ uỷ câu hác
Huyết nhục tự sài lang
Mẫu tử bất túc tuất
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống tại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng
Âm phong phiêu nhiên chí
Hành nhân diệc thê hoàng
Tạc tiêu Tây Hà dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí vô cố tích
Lân cẩu yếm cao lương
Bất tri quan đạo thượng
Hữu thử cùng nhi nương
Thuỳ nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương
Dịch nghĩa:
Có người đàn bà dắt ba đứa con
Cùng nhau ngồi bên đường
Ðứa nhỏ trong bụng mẹ
Ðứa lớn cầm giỏ tre
Trong giỏ đựng gì lắm thế?
Rau lê, hoắc lẫn cám
Qua trưa rồi chưa được ăn
Áo quần sao mà rách rưới quá
Thấy người không ngẩng nhìn
Nước mắt chảy ròng ròng trên áo
Lũ con vẫn vui cười
Không biết lòng mẹ đau
Lòng mẹ đau ra sao?
Năm đói lưu lạc đến làng khác
Làng khác mùa màng tốt hơn
Giá gạo không cao quá
Không hối tiếc đã bỏ làng đi
Miễn sao tìm được phương tiện sống
Một người làm hết sức
Không đủ nuôi bốn miệng ăn
Dọc đường mỗi ngày đi ăn mày
Cách ấy làm sao kéo dài mãi được
Thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh
Máu thịt nuôi lang sói
Mẹ chết không thương tiếc
Vỗ về con càng thêm đứt ruột
Trong lòng đau xót lạ thường
Mặt trời vì thế phải vàng uá
Gió lạnh bỗng ào tới
Người đi đường cũng đau đớn làm sao
Ðêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung phụng khoa trương quá mức
Gân hươu cùng vây cá
Ðầy bàn thịt heo, thịt dê
Quan lớn không thèm đụng đũa
Ðám theo hầu chỉ nếm qua
Vứt bỏ không luyến tiếc
Chó hàng xóm cũng ngán món ăn ngon
Không biết trên đường cái
Có mẹ con đói khổ nhà này
Ai người vẽ bức tranh đó
Ðem dâng lên nhà vua
Văn tế thập loại chúng sinh
1.Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
5. Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
10. Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
15. Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
35. Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
55. Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
60. Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?Cũng có kẻ tính đường trí phú,
70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
75. Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
95. Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
105. Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
115. Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
130. Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
135. Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
150. Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
170. Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
175. Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
180. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Độc Tiểu Thanh ký
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?Dịch nghĩa:
Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang,
Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi.
Son phấn có linh hồn chắc phải xót chuyện xảy ra sau khi chết,
Văn chương không có mệnh mà cũng bị liên luỵ, đốt đi còn sót lại một vài bài.
Mối hận cổ kim, thật khó mà hỏi ông trời.
Ta tự coi như người cùng một hội, một thuyền với nàng là kẻ vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng.
Chẳng biết ba trăm năm sau nữa,
Thiên hạ có ai khóc Tố Như ta?
>>>XEM THÊM: Tuyển tập thơ Nguyễn Đình Thi - những vần thơ lấp lánh giữa đời
Long thành cầm giả ca
Long thành giai nhân,
Bất ký danh tự.
Ðộc thiện huyền cầm,
Cử thành chi nhân dĩ cầm danh.
Học đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến,
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến.
Thử thời tam thất chánh phương niên,
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện.
Ðà nhan hám thái tối nghi nhân,
Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến.
Hoãn như luơng phong độ tùng lâm,
Thanh như chích hạc minh tại âm.
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,
Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm.
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện,
Tận thị Trung Hoà Ðại Nội âm.
Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
Hào hoa ý khí lăng công hầu,
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo.
Tính tương tam thập lục cung xuân,
Hoán thủ Trường An vô giá bảo.
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên,
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên.
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến,
Hà huống thành trung ca vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan xú thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn my bất sức trang,
Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu.
Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ,
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi.
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ độ tang điền biến thương hải.
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong,
Ca vũ không lưu nhất nhân tại.
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
Nam Hà quy lai đầu tận bạch,
Quái để giai nhân nhan sắc suy.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng,
Khả liên đối diện bất tương tri.
Dịch nghĩa:
Người đẹp Long Thành
Họ tên không được biết
Riêng thạo đàn huyền cầm
Dân trong thành gọi nàng là cô Cầm
Gảy khúc “Cung phụng” từ triều vua xưa
Một khúc đàn hay tuyệt từ trời đưa xuống thế gian.
Nhớ hồi trẻ tôi đã gặp nàng một lần
Bên hồ Giám trong một đêm yến tiệc
Tuổi cô cỡ hai mươi mốt
Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp như hoa
Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả ái
Ngón tay lướt năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông
Thanh trong như đôi hạc kêu nơi xa xôi
Mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc
Sầu bi như Trang Tích lúc đau ốm ngâm rên tiếng Việt
Người nghe nàng say sưa không biết mệt
Trong khúc nhạc đại nội Trung Hoà.
Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả
Lo vui chơi suốt đêm không nghỉ
Bên phải bên trái tranh nhau cho thưởng
Tiền bạc coi thường có nghĩa chi.
Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu
Giới trẻ nơi Ngũ Lăng không đáng kể
Dường như ba mươi sáu cung xuân
Nay Tràng An đã hun đúc được một báu vật vô giá.
Trong đầu nhớ lại đã hai mươi năm
Tây sơn thua bại, tôi vào Nam
Long Thành gần mà cũng chẳng được thấy
Còn nói chi đến chuyện múa hát trong thành.
Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc vui đãi tôi
Ca kỹ trẻ xinh cả một đám
Chỉ có một kẽ tóc hoa râm ngồi cuối phòng
Mặt xấu, sắc khô, người hơi nhỏ
Mày phờ phạc không điểm phấn tô son
Sao mà đoán được người này là đệ nhất danh ca một thời.
Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ
Lắng tai nghe lòng càng đau xót
Tự nhiên nhớ lại hai mươi năm trước
Bên hồ Giám trong dạ tiệc ta đã thấy nàng
Thành quách đã chuyển, người cũng đổi thay
Nương dâu trở thành biển cả đã nhiều
Cơ nghiệp Tây sơn cũng đà tiêu tán
Sót lại đây còn người múa ca.
Thấm thoắt trăm năm có là bao
Cảm thương chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt
Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng
Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn.
Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa
Thương cho đối mặt mà chẳng nhìn nhận ra nhau.
Đối tửu
Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai,
Lạc hoa vô số há thương đài.
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,
Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi?
Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ,
Niên quang ám trục bạch đầu lai.
Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý,
Thế sự phù vân chân khả ai.
Dịch nghĩa:
Ngồi xếp bằng tròn trước cửa sổ, rượu vào hơi say mắt lim dim,
Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh.
Lúc sống không uống cạn chén rượu,
Chết rồi, ai rưới trên mồ cho?
Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi,
Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc.
Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn.
Thác lời trai phường nón
Tiếc thay duyên Tấn phận Tần,
Chưa quen đã lạ chưa gần đã xa.
Chưa chi đông đã rạng ra,
Đến giờ vẫn giận con gà chết toi.
Tím gan cho cái sao Mai,
Thảo nào vác búa chém trời cũng nên.
Về qua liếc mắt trông miền,
Lời oanh giọng ví chưa yên dằm ngồi.
Giữa thềm tàn đuốc còn tươi,
Bã trầu chưa quét nào người tình chung.
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng,
Đò Cài mấy trượng thì tình bấy nhiêu.
Làm chi cắc cớ lắm điều,
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay.
Khi xa xa đến thế này,
Tiếng xa nghe hãy rù rì bên tai.
Quê nhà nắng sớm mưa mai,
Đã buồn giở đến lịp tơi càng buồn.
Thờ ơ bó vọt đống sườn,
Đã nhàm bẹ móc lại hờn nắm giang.
Trăng tà chênh chếch bóng vàng,
Dừng chân thoạt nhớ đến đàng cửa truông.
Thẩn thơ gối chiếc màn suông,
Rối lòng như sợi ai guồng cho xong.
Phiên nào chợ Vịnh ra trông,
Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba.
Càng trông càng chẳng thấy ra,
Cơi trầu quyệt đã vài và lần ôi.
Tưởng rằng nói thế mà chơi.
Song le đã động lòng người lắm thay.
Trông trời trời cách tầng mây,
Trông trăng trăng hẹn đến ngày ba mươi.
Vô tình trăng cũng như người,
Một ta ta lại ngậm cười chuyện ta.
Vọng Phu thạch
Thạch da? Nhân da? Bỉ hà nhân?
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng,
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân.
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ,
Đài triện trường minh nhất đoạn văn.
Tứ vọng liên sơn diểu vô tế,
Độc giao nhi nữ thiện di luân.
Dịch nghĩa:
Đá chăng? Người chăng? Là ai đấy nhỉ?
Đứng một mình trên ngọn núi hàng ngàn năm nay.
Muôn kiếp không bao giờ có mộng mây mưa,
Tấm thân giữ được trinh tiết mãi mãi.
Mưa thu như dòng lệ chảy không ngớt,
Lớp rêu như ghi lại một bài văn ca tụng nàng.
Nhìn bốn phía núi non từng từng lớp lớp,
Luân thường chỉ dành riêng cho bạn gái chăng?
Khất thực
Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên,
Triển chuyển nê đồ tam thập niên.
Văn tự hà tằng vi ngã dụng ?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên!
Dịch nghĩa:
Tựa kiếm dài, ngạo nghễ nhìn trời xanh,
Lăn lộn trong đám bùn dơ ba mươi năm nay.
Văn chương nào đã dùng được việc gì cho ta ?
Đâu ngờ phải đói rét để người thương
Thôn dạ
Thanh thảo thôn tiền ngoạ lão ông,
Giang nam dạ sắc thướng liêm lung.
Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thuỷ,
Bán bích hàn đăng vạn thụ phong.
Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
Chướng tiêu thời giác túc tâm không.
Niên niên kết đắc ngư tiều lữ,
Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung.
Dịch nghĩa:
Phía trước thôn Thanh Thảo có một ông già nằm khoèo,
Bóng tối trên bờ sông nam đã phủ dần lên bức mành.
Vầng trăng sáng đầy trời rọi xuống mặt nước ao,
Ngọn đèn lạnh treo trên vách leo lét trước làn gió muôn cây.
Già rồi mà vẫn chưa biết mình vụng đường sinh kế,
Hết nghhiệp chướng mới thấy tấm lòng xưa nhẹ nhõm.
Làm bạn với khách tiều ngư hết năm này sang năm khác,
Và cười ngạo nghễ giữa khói mặt hồ và đồng cỏ nội.
Sơn Thôn
Vạn sơn thâm xứ tuyệt phong trần,
Thác lạc sài môn bế mộ vân.
Trưởng giả y quan do thị Hán,
Sơn trung giáp tí quýnh phi Tần.
Mục nhi giác chuỷ hoang giao mộ,
Cấp nữ đồng liên ngọc tỉnh xuân.
Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại,
Trường tùng thụ hạ tối nghi nhân.
Dịch thơ:
Tuyệt không gió bụi chốn rừng sâu,
Rải rác mây chiều khép cửa lau.
Áo mũ người sang còn Hán nhỉ,
Tháng năm trong núi phải Tần đâu?
Đồng hoang chú mục sừng khua gõ,
Giếng ngọc cô em nước múc gàu.
Sao dược thoát ra ngoài cõi tục,
Bóng tùng hóng mát thú dường bao!
Khổng Tước Vũ
Khổng tước phủ hoài độc,
Ngộ phục bất khả y.
Ngoại lộ văn chương thể,
Trung tàng sát phạt ky.
Nhân khoa dung chỉ thiện,
Ngã tích vũ mao kỳ.
Hạc hải diệc hội vũ,
Bất dữ thế nhân tri.
Dịch thơ:
Không thuốc nào chữa được,
Khi ngộ độc gan công.
Vẻ đẹp lộ ngoài mã,
Chất độc giấu trong lòng.
Người thường khen cái dáng,
Ta chỉ tiếc bộ lông.
Hạc bể cũng biết múa,
Không cho người đời trông.
Vị Hoàng Doanh
Vị Hoàng giang thượng Vị Hoàng doanh,
Lâu lỗ sâm si tiếp thái thanh.
Cổ độ tà dương khan ẩm mã,
Hoang giao tĩnh dạ loạn phi huỳnh.
Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh.
Mạc hướng Thanh Hoa thôn khẩu vọng,
Điệp Sơn bất cải cựu thì thanh.
Dịch thơ:
Doanh trại Vị Hoàng bên mé sông,
Nhấp nhô lầu gác ngất tầng không.
Chiều tà ngựa uống ran ngoài bến,
Đêm vắng, huỳnh bay rợp nẻo đồng.
Triều đại ngàn năm xưa vẫn hiếm,
Thế hình trăm trận vẫn còn hùng.
Nhìn về phía xóm Thanh Hoa ấy,
Tam Điệp xanh xanh núi trập trùng.
Dạ Toạ
Tứ bích cùng thanh náo dạ miên,
Ải sàng di hướng khúc lan biên.
Vi phong bất động sương thuỳ địa,
Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên.
Kim cổ nhàn sầu lai tuý hậu,
Thuần lô hương tứ tại thu tiên.
Bạch đầu sở kế duy y thực,
Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên!
Dịch thơ:
Đêm trường bốn vách dế kêu than
Kéo lại gần hiên chiếc chõng nan
Sương phủ đất mờ cơn gió thoảng
Sao đầy nguyệt xế bóng đêm tàn
Xưa nay cạn chén sầu khơi dậy
Lau, ngót nhớ mùi thu chửa sang
Cơm áo mãi lo đầu đã bạc
Đâu thời niên thiếu hát ca vang!
Biện Giả
Bất thiệp Hồ Nam đạo,
An tri Tương Thuỷ thâm?
Bất độc Hoài sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm?
Khuất Nguyên tâm, Tương giang thuỷ,
Thiên thu vạn thu thanh kiến để.
Cổ kim an đắc đồng tâm nhân,
Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ.
Liệt nữ tòng lai bất nhị phu,
Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”.
Vị tất cổ nhân tri hữu ngã,
Nhãn trung Tương Thuỷ, không du du!
Dịch thơ:
Hồ Nam chưa đi tới
Sao biết sông Tương sâu
Phú Hoài Sa chưa đọc
Lòng Khuất Nguyên biết đâu.
Khuất Nguyên đau, sông Tương chảy
Trong vắt muôn đời nhìn thấy đáy
Mấy ai có được bạn đồng tâm
Bài phú Giả sinh vô nghĩa ấy!
Liệt nữ xưa nay chỉ một chồng
Chín châu hà tất kiếm long đong
Có ta chưa hẳn người xưa biết
Lờ lững sông Tương trong mắt trong.
Há Than Hỷ Phú
Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ (từ),
Nhất trạo trung lưu tứ sở chi.
Ðáo xứ giang sơn như thức thú,
Hỷ nhân xà hổ bất thi uy.
Vạn châu tùng thụ tăng nhân ốc,
Nhất đới hàn yên Yến Tử ky (cơ).
Tịch tịch thuyền song vô cá sự,
Ngư ca giang thượng khán tà huy.
Dịch thơ:
Thành khẩn dâng hương vái trước đền
Một thuyền theo nước cứ lênh đênh
Mừng người rắn cọp không làm dữ
Thích cảnh non sông như đã quen
Muôn cụm tùng xanh sư trú ngụ
Một Hòn Én lạnh khói dâng lên
Bên song lặng lẽ không gì bận
Nghe khúc chài ca, ngó nắng nghiêng.
Ngẫu Thư Công Quán Bích
Triêu xan nhất vu phạn,
Mộ dục nhất bồn thuỷ.
Bế môn tạ tri giao,
Khai song kiến kinh kỷ.
Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường,
Mĩ nhân du du cách cao tường.
Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ,
Hồn hề quy lai bi cố hương.
Dịch thơ:
Sớm ăn một bát cơm
Chiều tắm một bồn nước
Đóng cửa tạ người quen
Hé song thấy gai góc
Gai góc ngoài song mọc ngổn ngang
Mỹ nhân vòi vọi cách cao tường
Cuốc kêu một tiếng xuân đi mất
Hồn hỡi! Về đi… thương cố hương
Sơn Cư Mạn Hứng
Nam khứ Trường An thiên lý dư,
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
Dịch thơ:
Kinh đô khuất nẻo dặm ngàn xa,
Giữa chốn non xanh một túp nhà.
Ngày lặng cửa sài mây phủ kín,
Trời xuân vườn thuốc trúc lơ thơ.
Lòng quê lai láng gương thiềm rọi,
Lệ cũ đầm đìa tiếng nhạn thưa
Xa cách các em tin tức bặt
Bình yên mấy chữ thấy đâu mà.
U Cư Kỳ 1
Đào hoa, đào diệp lạc phân phân,
Môn yểm tà phi nhất viện bần.
Trú cửu đốn vong thân thị khách,
Niên thâm cánh giác lão tuỳ thân.
Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,
Loạn thế toàn sinh cửu uý nhân.
Lưu lạc bạch đầu thành để sự,
Tây phong xuy đảo tiểu ô cân.
Dịch thơ:
Hoa lá vườn đào rụng tả tơi,
Một nhà bần bạc cổng xiên cài.
Ở lâu quên bẵng mình dân ngụ,
Sống mãi hay đâu tuổi lão rồi!
Đất khách giả ngây phòng kẻ tục,
Giữ mình thời loạn sợ lòng người.
Linh đinh đầu bạc không nên chuyện,
Ngọn gió tây thổi chiếc khăn rơi.
U Cư Kỳ 2
Thập tải phong trần khứ quốc xa,
Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia.
Trường đồ nhật mộ tân du thiểu,
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa.
Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch,
Hoang trì thuỷ hạc xuất hà ma.
Hành nhân mạc tụng “Đăng lâu phú”,
Cưỡng bán xuân quang tại hải nha (nhai).
Dịch thơ:
Gió bụi mười năm biệt cố hương
Bơ phờ đầu bạc, đất người nương
Bệnh nhiều, xuân lạnh, nhà đơn chiếc
Bạn ít, chiều sang, bước dặm trường.
Trăng sáng, thạch sùng leo vách nát,
Nước khô, ếch nhái nhảy đầm hoang.
Khách đường chớ đọc Đăng lâu phú
Quá nửa đời người giạt một phương.
Vậy là các bạn vừa được tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Du cùng tuyển tập thơ Nguyễn Du "bất tử" cùng thời gian. Hi vọng, sau khi chia sẻ cùng bài viết bạn có thêm nhiều trải nghiệm khó quên. Cảm ơn các bạn đã đồng hành cùng bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết sau !
>>>ĐỪNG BỎ LỠ: TOP 99+ bài thơ Nguyễn Khoa Điềm "sống" mãi cùng thời gian