phone messenger zalo

Thơ Lý Bạch - top những kiệt tác kinh điển mọi thời đại

Thiều Hoa » Blog » Thơ hay » Thơ Lý Bạch - top những kiệt tác kinh điển mọi thời đại
Theo dõi Thiều Hoa trên Thiều Hoa Google News
Thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ. Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Lý Bạch hay nhất

Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời đường tại Trung Hoa. Ông được hậu thế gọi là "Thi tiên" (tức là thơ tiên), là một Thi tiên vĩ đại của đất nước Trung Quốc.Trong sự nghiệp văn chương, nhà thơ Lý Bạch đã sáng tác hơn 20.000 bài thơ, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ. Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Lý Bạch hay nhất sau đây để cảm nhận bạn nhé !

Đôi nét về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Lý Bạch

Tiểu sử:

Lý Bạch (李白), tự là Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青蓮居士). Ông sinh ngày 19/05/701 sau Công nguyên tại Trung Quốc. Lý Bạch mất ngày 30/11/762 sau Công nguyên. Ông là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn bậc nhất thời Thịnh Đường, một nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn kiệt xuất nhất Trung Hoa lúc bấy giờ. Lý Bạch được mệnh danh là “tiên thơ” vì đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh cho văn học Trung Hoa ngay thời điểm đó.

Khác với các ngòi bút đương thời, thơ Lý Bạch ý cảnh kỳ lạ, chữ nghĩa phong phú, ào ạt như Trường Giang đại hải. Tính cách khoáng đạt, thơ lại hay thích viễn vông, phóng túng, thích gió thích trăng ít động chạm đến thế sự nhân tình. Thơ của ông và giá trị nghệ thuật tác giả Lý Bạch đạt đến mức độ trước nay chưa từng có, giúp tên tuổi của ông lưu danh thiên cổ.

Từ trẻ, Lý Bạch đã xa gia đình để đi tìm đường lập công danh sự nghiệp, ông yêu thơ và làm rất nhiều bài thơ với các chủ đề khác nhau.

tho-ly-bach 0

Chân dung nhà thơ Lý Bạch

Sự nghiệp sáng tác văn chương của nhà thơ Lý Bạch

Theo thông tin được biết, tác giả Lý Bạch làm hơn 20.000 bài thơ, nhưng làm bài nào bỏ bài đó. Đến nay, thơ Lý Bạch còn trên 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá cao. Nổi tiếng trong dân gian có bài Hiệp khách hành, Tương Tiến Tửu, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan.

Thơ ông viết về mọi đủ mọi đề tài như tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, bất bình với hiện thực tầm thường, thể hiện tình cảm phong phú và mãnh liệt, vịnh cảnh, thưởng hoa, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng,…đề tài nào ông cũng có được những bài thơ tuyệt tác.

Phong cách thơ Lý Bạch lại hào phóng, bay bổng, tự nhiên và tinh tế, đặc trưng nổi bật trong thơ của Lý Bạch là sự thống nhất giữa cái cao cả và cái đẹp. Chính vì lòng yêu quê hương, đất nước mà Lý Bạch sáng tác thơ có sự đồng cảm sâu sắc với số phận của nhân dân. Lý Bạch sống trong thời hưng thịnh của nhà Đường do khát khao cái đẹp, mà ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, một vẻ đẹp đầy nữ tính tạo nên nguồn cảm hứng mạnh cho nhà thơ.

Lý Bạch yêu quê hương, đất nước và cũng chính lòng yêu nước ở Lý Bạch là bắt nguồn từ lòng yêu sông núi quê hương. Nhà thơ Lý Bạch được xem là một trong những cây bút tài hoa của nền văn học Trung Quốc, hồn thơ Lý Bạch thiên về chủ nghĩa lãng mạn, mơ mộng và hoài cổ. Còn thơ ca của Đỗ Phủ luôn hướng về hiện thực mang một nét gì đó rất riêng.

Tác giả Lý Bạch là người mang hồn thơ theo chủ nghĩa lãng mạn kiệt xuất thời nhà Đường. Cả cuộc đời của Lý Bạch luôn khao khát cống hiến, giúp đỡ nhân dân nhưng ước mơ đó không được toại nguyện. Cuộc đời của Lý Bạch đã đi vào truyền thuyết về một nhân tài thơ ca hiếm thấy có tinh thần trượng nghĩa.

Lý Bạch còn có một số bút hiệu khác như Thái Bạch, Tràng Canh, ông Thanh Liên cư sĩ… những bút hiệu này đã gắn liền với tài năng xuất chúng và sự cống hiến vĩ đại của ông cho nền thơ ca nước nhà.

Tên tuổi của ông đã vang danh khắp vùng tài năng thơ của ông tiếng tăm đã vang đến triều đình. Năm 741, danh tiếng Lý Bạch vang danh khắp thiên hạ, sau này ông được mời vào điện Kim Loan thảo thư từ cho vua Đường Minh Hoàng và được phong chức vị Hàn Lâm.

Những kiệt tác thơ Lý Bạch "bất tử" cùng thời gian

Thơ của Lý Bạch phóng khoáng bay bổng, ít chịu ảnh hưởng cho Nho gia. Thơ của ông là lòng đồng cảm với cái đẹp, sự xót xa trước cái đẹp bị vùi dập, bị chà đạp. Ông viết khá đa dạng về đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng, của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng… Cùng Thieuhoa lắng lòng qua tuyển tập thơ Ly Bạch hay, nổi tiếng sau đây để cảm nhận bạn nhé !

Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng

tho-ly-bach 1

Bài thơ "Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng" của Lý Bạch 

Tiếng Hán:

黃鶴樓送孟浩然之廣陵

故人西辭黃鶴樓,
煙花三月下揚州。
孤帆遠影碧空盡,
惟見長江天際流。

Phiên âm:

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Dịch thơ:

Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc lâu
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu
Bóng buồm chìm lẫn trong trời biếc
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy mau

Nguyệt Dạ Giang Hành Ký Thôi Viên Ngoại Tông Chi

Tiếng Hán:

月夜江行寄崔員外宗之

飄飄江風起,
蕭颯海樹秋。
登艫美清夜,
挂席移輕舟。
月隨碧山轉,
水合青天流。
杳如星河上,
但覺雲林幽。
歸路方浩浩,
徂川去悠悠。
徒悲蕙草歇,
復聽菱歌愁。
岸曲迷后浦,
沙明瞰前洲。
懷君不可見,
望遠增離憂。

Phiên âm:

Phiêu phiêu giang phong khởi
Tiêu táp hải thụ thu
Đăng lô mỹ thanh dạ
Quải tịch di khinh chu
Nguyệt tùy bích sơn chuyển
Thủy hợp thanh thiên lưu
Diểu như tinh hà thượng
Đán giác vân lâm u
Quy lộ phương hạo hạo
Tồ xuyên khứ du du
Đồ bi huệ thảo yết
Phúc thính lăng ca sầu
Ngạn khúc mê hậu phố
Sa minh hám tiền châu
Hoài quân bất khả kiến
Lưu viễn tăng ly ưu.

Dịch thơ:

Gió sông nhè nhẹ thổi
Cây lá xác xơ vàng
Sào nhổ, đêm vằng vặc
Buồm căng, sóng nhẹ nhàng
Núi trăng lùi chậm chậm
Trời nước trôi mênh mang
Sông Hán lờ mờ chảy
Sương rừng ảm đạm loang
Sau lưng đường dằng dặc
Trước mặt nước thênh thang
Cỏ thơm sầu áo não
Ai hát buồn miên man:
“Sông uốn quê lùi khuất
Cồn dâng cát ánh vàng”
Nhớ anh mà cách biệt
Từng dặm sầu tràng giang.

Cổ Ý

Tiếng Hán:

古意

君為女蘿草,
妾作菟絲花。
輕條不自行,
為逐春風斜。
百丈託遠松,
纏綿成一家。
誰言會面易,
各在青山崖。
女蘿發馨香,
菟絲斷人腸。
枝枝相糾結,
葉葉競飄揚。
生子不知根,
因誰共芬芳。
中巢雙翡翠,
上宿紫鴛鴦。
若識二草心,
海潮易可量。

Phiên âm:

Quân vi nữ la thảo,
Thiếp tác thố ti hoa.
Khinh điều bất tự hành,
Vị trục xuân phong tà.
Bách trượng thác viễn tùng,
Triền miên thành nhất gia.
Thuỳ ngôn hội diện dị,
Các tại thanh sơn nha (nhai).
Nữ la phát hinh hương,
Thố ty đoạn nhân trường.
Chi chi tương củ kết,
Diệp diệp cánh phiêu dương.
Sinh tử bất tri căn,
Nhân thuỳ cộng phân phương.
Trung sào song phỉ thuý,
Thượng túc tử uyên ương.
Nhược thức nhị thảo tâm,
Hải triều diệc khả lường.

Dịch thơ:

Chàng là cỏ nữ la
Còn thiếp, thố ti hoa
Cành mềm không tự chuyển
Nghiêng ngả gió xuân qua
Gửi nhánh thông trăm thước
Vấn vương hoá một nhà
Ai rằng thường gặp gỡ
Mỗi kẻ một sườn xa!
Nữ la cứ toả hương
Thố ti gợi đoạn trường
Cành cành chằng chịt kết
Lá lá phất phơ giương
Sinh con không biết rễ
Ai để ngát mùi hương
Trong nương đôi phỉ thuý
Trên đậu cặp uyên ương
Ví biết lòng hai cỏ
Triều kia cũng dễ lường

Hí Tặng Đỗ Phủ

Tiếng Hán:

戲贈杜甫

飯顆山頭逢杜甫,
頭戴笠子日卓午。
借問別來太瘦生,
總為從前作詩苦。

Phiên âm:

Phạn Khoả sơn đầu phùng Đỗ Phủ,
Đầu đới lạp tử nhật trác ngọ.
Tá vấn biệt lai thái sấu sinh,
Tổng vị tòng tiền tác thi khổ.

Dịch thơ:

Ở đầu núi Phạn gặp Đỗ Phủ,
Nón lá đội đầu đứng giữa trưa.
Từ độ xa nhau, gầy đến thế,
Vần xoay, chắc bác khổ vì thơ.

Anh Vũ Châu

Tiếng Hán:

鸚鵡洲

鸚鵡來過吳江水,
江上洲傳鸚鵡名。
鸚鵡西飛隴山去,
芳洲之樹何青青。
煙開蘭葉香風暖,
岸夾桃花錦浪生。
遷客此時徒極目,
長洲孤月向誰明?

Phiên âm:

Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?

Dịch thơ:

Sóng Ngô anh vũ xưa qua đó
Anh Vũ thành tên gọi đến giờ
Anh vũ về tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây cối những xanh mờ
Mùi hương lan diệp lừng trong khói
Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ
Thiên khách trông vời thôi cũng uổng
Dọi ai trăng bãi luống bơ vơ!

Đối Tửu

tho-ly-bach 2

Bài thơ "Đối tửu" của Lý Bạch

Tiếng Hán:

對酒

蒲萄酒,
金叵羅,
吳姬十五細馬馱。
青黛畫眉紅錦靴,
道字不正嬌唱歌。
玳瑁筵中懷裏醉,
芙蓉帳底奈君何。

Phiên âm:

Bồ đào tửu,
Kim phả la,
Ngô cơ thập ngũ tế mã đà.
Thanh đại hoạ mi hồng cẩm ngoa,
Đạo tự bất chính kiều xướng ca.
Đại mội diên trung hoài lý tuý,
Phù dung trướng để nại quân hà.

Dịch thơ:

Rượu nho uống với chén vàng
Gái Ngô ngựa nhỏ tuổi chừng mười lăm
Mày xanh giày ủng gấm hồng
Giọng tuy chưa chuẩn thanh âm nhẹ nhàng
Tiệc đang dở bỗng say ngang
Trướng hoa bất tỉnh cô nàng cười chăng?

Bá Lăng Hành Tống Biệt

Tiếng Hán:

灞陵行送別

送君灞陵亭,
灞水流浩浩。
上有無花之古樹,
下有傷心之春草。
我向秦人問路跂,
雲是王粲南登之古道。
古道連綿走西京,
紫闕落日浮雲生。
正當今夕斷腸處,
驪歌愁絕不忍聽。

Phiên âm:

Tống quân Bá Lăng đình,
Bá thuỷ lưu hạo hạo.
Thượng hữu vô hoa chi cổ thụ,
Hạ hữu thương tâm chi xuân thảo.
Ngã hướng Tần nhân vấn lộ kỳ,
Vân thị Vương Xán nam đăng chi cổ đạo.
Cổ đạo liên miên tẩu Tây kinh,
Tử khuyết lạc nhật phù vân sinh.
Chính đương kim tịch đoạn trường xứ,
“Ly ca” sầu tuyệt bất nhẫn thính.

Dịch thơ:

Đình Bá Lăng cùng ông tiễn biệt
Sông Bá trôi nước xiết mênh mông
Trên cây cổ thụ không bông
Cỏ xuân dưới đất như lồng xót thương
Người đất Tần, rẽ đường nào vậy?
Đáp đường xưa Vương Xán vào nam
Xa xôi diệu vợi vô vàn!
Mây chiều đang nổi trên hoàng cung đây
Chia tay đứt ruột lúc này
“Ly ca” ai hát càng day dứt buồn

Lâm Lộ Ca

Tiếng Hán:

臨路歌

大鵬飛兮振八裔,
中天摧兮力不濟。
餘風激兮萬世,
遊扶桑兮掛石袂。
後人得之傳此,
仲尼亡兮誰為出涕?

Phiên âm:

Đại bằng phi hề chấn bát duệ,
Trung thiên tồi hề lực bất tế.
Dư phong kích hề vạn thế,
Du phù tang hề quải thạch duệ.
Hậu nhân đắc chi truyền thử,
Trọng Ni vong hề thuỳ vị xuất thế?

Dịch thơ:

Đại bàng bay tám phương lừng lẫy
Nhưng giữa trời cánh gẫy, than ôi
Chỉ còn phong cách để đời
Cây phù tang tới trút hơi cuối cùng
Đời sau ai có cảm thông
Trọng Ni đã khuất, lệ hồng ai rơi?

Nguyệt Hạ Độc Chước Kỳ 1

Tiếng Hán:

月下獨酌其一

花間一壺酒,
獨酌無相親。
舉杯要明月,
對影成三人。
月既不解飲,
影徒隨我身。
暫伴月將影,
行樂須及春。
我歌月徘徊,
我舞影零亂。
醒時同交歡,
醉後各分散。
永結無情遊,
相期邈雲漢。

Phiên âm:

Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tuỳ ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
Hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi,
Ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thì đồng giao hoan,
Tuý hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du,
Tương kỳ mạc Vân Hán.

Dịch thơ:

Có rượu không có bạn,
Một mình chuốc dưới hoa.
Cất chén mời trăng sáng,
Mình với bóng là ba.
Trăng đã không biết uống,
Bóng chỉ quấn theo ta.
Tạm cùng trăng với bóng,
Chơi xuân cho kịp mà!
Ta hát, trăng bồi hồi,
Ta múa, bóng rối loạn.
Lúc tỉnh cùng nhau vui,
Say rồi đều phân tán.
Gắn bó cuộc vong tình,
Hẹn nhau tít Vân Hán.

Bắc Phong Hành

Tiếng Hán:

北風行

燭龍棲寒門,
光曜猶旦開。
日月照之何不及此,
惟有北風號怒天上來。
燕山雪花大如席,
片片吹落軒轅臺。
幽州思婦十二月,
停歌罷笑雙蛾摧。
倚門望行人,
念君長城苦寒良可哀。
別時提劍救邊去,
遺此虎紋金鞞革叉。
中有一雙白羽箭,
蜘蛛結網生塵埃。
箭空在,
人今戰死不復回。
不忍見此物,
焚之已成灰。
黃河捧土尚可塞,
北風雨雪恨難裁。

Phiên âm:

Chúc long thê hàn môn,
Quang diệu do đán khai.
Nhật nguyệt chiếu chi hà bất cập thử,
Duy hữu bắc phong hào nộ thiên thượng lai.
Yên sơn tuyết hoa đại như tịch,
Phiến phiến xuy lạc Hiên Viên đài.
U Châu tư phụ thập nhị nguyệt,
Đình ca bãi tiếu song nga tồi.
Ỷ môn vọng hành nhân,
Niệm quân Trường Thành khổ hàn lương khả ai.
Biệt thời đề kiếm cứu biên khứ,
Di thử hổ văn kim bính cách xoa.
Trung hữu nhất song bạch vũ tiễn,
Tri thù kết võng sinh trần ai.
Tiễn không tại,
Nhân kim chiến tử bất phục hồi.
Bất nhẫn kiến thử vật,
Phần chi dĩ thành khôi.
Hoàng Hà phủng thổ thượng khả tái,
Bắc phong vũ tuyết hận nan tài.

Dịch thơ:

Cửa nhà nghèo đuốc rồng nào đến
Buổi mai về nắng sớm cũng giăng
Trời trăng lánh chốn này chăng
Chỉ nghe gió bấc hung hăng thét gào
Núi Yên Chi tuyết rơi như bão
Đài Hiên Viên sụp đổ tung bay
Đất trời vào tháng mười hai
U Châu thiếu phụ mày ngài buồn xo
Mãi âu lo không còn đùa nữa
Nhớ trượng phu tựa cửa ngóng trông
Chàng còn ở tận Trường Thành
Người đi đi mãi vắng tanh đường về
Nhớ lại hôm phu thê đưa tiễn
Cầm tay chàng bịn rịn luyến thương
Trượng phu lúc sắp lên đường
Tuốt gươm thề chốn biên cương giết thù
Người đi xa nay còn để lại
Túi đựng tên cùng với đồ dùng
Nhện giăng bụi bám tứ tung
Túi thì trống rỗng, tên cùng người đi
Chốn sa trường thân tuy dũng mãnh
Chiến đấu hoài chết mất còn đâu
Sông Hoàng đất trũng bấy lâu
Nhưng rồi có thể cùng nhau lấp đầy
Gió bấc ơi giận lây thổi mãi
Đem lạnh về tuyết rải khắp nơi
Buồn này trách đất oán trời
Trượng phu đã chết một đời cô đơn.

Tĩnh Dạ Tứ

tho-ly-bach 3

Bài thơ "Tĩnh dạ tứ" của Lý Bạch

Tiếng Hán:

靜夜思

床前明月光,
疑是地上霜。
舉頭望明月,
低頭思故鄉。

Phiên âm:

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Dịch thơ:

Ánh trăng chiếu sáng đầu giường
Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày
Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy
Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương

Thanh Bình Diệu Kỳ 1

Tiếng Hán:

清平調其一

雲想衣裳花想容,
春風拂檻露華濃。
若非群玉山頭見,
會向瑤臺月下逢。

Phiên âm:

Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,
Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng.
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng.

Dịch thơ:

Thoáng bóng mây hoa nhớ bóng hồng,
Gió xuân dìu dặt giọt sương trong.
Ví chăng non ngọc không nhìn thấy,
Dưới nguyệt Dao Đài thử ngóng trông.

Bả Tửu Vấn Nguyệt

Tiếng Hán:

把酒問月

青天有月來幾時,
我今停杯一問之。
人攀明月不可得,
月行卻與人相隨。
皎如飛鏡臨丹闕,
綠煙滅盡清輝發。
但見宵從海上來,
寧知曉向雲間沒。
白兔搗藥秋復春,
嫦娥孤棲與誰鄰。
今人不見古時月,
今月曾經照古人。
古人今人若流水,
共看明月皆如此。
唯願當歌對酒時,
月光常照金樽裡。

Phiên âm:

Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.

Dịch thơ:

Trời xanh có trăng từ thuở nào?
Ngừng chén đêm này hỏi một câu.
Người với lên trăng, vin chẳng được,
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.
Trăng như gương lượn bên đan khuyết,
Xoá sạch mây xanh, soi vằng vặc.
Chỉ thấy đêm từ mặt biển lên,
Hay đâu đến sáng vào mây khuất.
Thỏ ngọc giã thuốc thu lại xuân,
Thường Nga quạnh hưu ai người gần?
Người nay chẳng thấy trăng thời trước,
Người trước, trăng nay soi đã từng.
Người trước, người nay như nước chảy,
Cùng xem trăng sáng đều thế đấy.
Chỉ ước vui ca thưởng chén quỳnh,
Be vàng, trăng sáng vào rọi mãi.

Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn Chí

Tiếng Hán:

春日醉起言志

處世若大夢,
胡為勞其生?
所以終日醉,
頹然臥前楹。
覺來眄庭前,
一鳥花間鳴。
借問此何時?
春風語流鶯。
戚之欲歎息,
對酒還自傾,
浩歌待明月,
曲盡己忘情。

Phiên âm:

Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh!
Sở dĩ chung nhật tuý,
Đồi nhiên ngoạ tiền doanh.
Giác lai miên đình tiền,
Nhất điểu hoa gian minh.
Tá vấn thử hà nhật,
Xuân phong ngữ lưu oanh.
Cảm chi dục thán tức,
Đối tửu hoàn tự khuynh.
Hạo ca đãi minh nguyệt,
Khúc tận dĩ vong tình.

Dịch thơ:

Ở đời như mộng lớn
Làm chi cho nhọc mình!
Suốt ngày say khướt mãi
Lăn ngủ mái hiên đình
Tỉnh dậy trông sân trước
Chim hót khóm hoa xinh
Ngẫm hỏi ngày nào đấy ?
Gió xuân vọng tiếng oanh
Cám cảnh toan than thở
Thấy rượu lại nghiêng bình
Hát ngao chờ trăng sáng
Hết khúc đã quên tình

Bạch Đầu Ngâm

Tiếng Hán:

白頭吟

錦水東北流,
波蕩雙鴛鴦。
雄巢漢宮樹,
雌弄秦草芳。
寧同萬死碎綺翼,
不忍雲間兩分張。
此時阿嬌正嬌妒,
獨坐長門愁日暮。
但愿君恩顧妾深,
豈惜黃金買詞賦。
相如作賦得黃金,
丈夫好新多異心。
一朝將聘茂陵女,
文君因贈白頭吟。
東流不作西歸水,
落花辭條羞故林。
兔絲固無情,
隨風任傾倒。
誰使女蘿枝,
而來強縈抱。
兩草猶一心,
人心不如草。
莫卷龍須席,
從他生網絲。
且留琥珀枕,
或有夢來時。
覆水再收豈滿杯,
棄妾已去難重回。
古來得意不相負,
只今惟見青陵臺。

Phiên âm:

Cẩm thuỷ đông bắc lưu,
Ba đãng song uyên ương.
Hùng sào Hán cung thụ,
Thư lộng Tần thảo phương.
Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực,
Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương.
Thử thì A Kiều chính kiều đố,
Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ.
Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm,
Khởi tích hoàng kim mãi từ phú.
Tương Như tác phú đắc hoàng kim,
Trượng phu hiếu tân đa dị tâm.
Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ,
Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”.
Đông lưu bất tác tây quy thuỷ,
Lạc hoa từ điều tu cố lâm.
Thố ty cố vô tình,
Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo.
Thuỳ sử nữ la chi,
Nhi lai cưỡng oanh bão.
Lưỡng thảo do nhất tâm,
Nhân tâm bất như thảo.
Mạc quyển long tu tịch,
Tòng tha sinh võng ty.
Thả lưu hổ phách chẩm,
Hoặc hữu mộng lai thì.
Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi,
Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi.
Cổ lai đắc ý bất tương phụ,
Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài.

Dịch thơ:

Dòng sông Cẩm chảy về đông bắc
Xô cặp uyên ương lớp sóng đào
Mái lộng cỏ Tần thơm phảng phất
Trống trên cung Hán đỉnh cây cao.
Nát lông cánh, vạn lần cùng chết
Hơn ở trong mây rẻ cánh nhau.
Còn nhớ A Kiều ghen thuở nọ
Trường môn chiều xuống lặng ngồi sầu
Ngắm trăng lòng ước hầu bên chúa.
Xưa phú từ mua cuộc sống giàu
Làm phú Tương Như sung túc hẳn
Đàn ông chuộng mới đổi thay mau.
Mậu Lăng một sớm tâm tình hợp
Nhỏ lệ Văn Quân phú Bạch đầu
Nước chẳng về đông, tây cuộn mãi
Lá lìa cành rụng chốn rừng sâu.
Cỏ thố ti vô tình
Cuốn mình theo chiều gió
Cùng với nữ la cành
Quấn quanh dù bão tố
Hai cỏ một tâm tình
Lòng người thua cây cỏ.
Chiếu long tu trải đó
Cho tơ nhện giăng mành.
Giữ gìn gối hổ phách
Về lại thuở mơ lành.
Thôi đành ! nước đỗ hốt đầy sao?
Phụ thiếp đuổi đi, khó lại nào.
Tự cổ được thời, không xứng vợ
Đến nay chỉ thấy gác Thanh sầu.

Vậy là các bạn vừa được tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Lý Bạch cùng tuyển tập thơ Lý Bạch "bất tử" cùng thời gian. Hi vọng, sau khi chia sẻ cùng bài viết bạn có thêm nhiều trải nghiệm khó quên. Cảm ơn các bạn đã đồng hành cùng bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết sau !

>>>ĐỪNG BỎ LỠ: Thơ Hữu Thỉnh - tuyển tập những bài thơ hay đi cùng năm tháng

Thái Huỳnh

Bạn có hài lòng bài viết này?

SẢN PHẨM LIÊN QUAN
BÀI VIẾT LIÊN QUAN