Thơ Tản Đà - tuyển tập thơ hay nhất của thi sĩ hai thế kỉ

Thiều Hoa » Blog » Thơ hay » Thơ Tản Đà - tuyển tập thơ hay nhất của thi sĩ hai thế kỉ
Theo dõi Thiều Hoa trên Thiều Hoa Google News
Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Tản Đà hay nhất sau đây để hiểu hơn về phong cách sáng tác cũng như con người ông bạn nhé !

Tản Đà là nhà thơ tiên phong khởi đầu cho phong trào thơ mới nhen nhom, phát triển. Tản Đà được xem là thi sĩ hai thế kì, là người đầu tiên phá vỡ những quy luật gò bó của thơ cũ trong các vần, niêm luật và tư tưởng để thể hiện trong câu chữ, trong ước muốn thoát ly khỏi hiện thực, thể hiện cái "ngông" của mình. Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Tản Đà hay nhất sau đây để cảm nhận bạn nhé !

1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tản Đà

1.1 Tiểu sử

Tản Đà (19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 (20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, Thành Thái nguyên niên), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội), nguyên quán ở làng Lủ tức làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội).

Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia có nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Sau Gia Long lên ngôi, dòng họ này thề sẽ không đi thi, không làm quan với tân triều. Đến thời cha ông là Nguyễn Danh Kế, do hoàn cảnh gia đình cực khổ, lại phải nuôi mẹ già, đành lỗi ước với tổ tiên. Nguyễn Danh Kế thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý, nổi tiếng là người có tài văn án trong triều. Ông Kế vốn là người phong lưu tài tử, thường lui tới chốn bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền ở phố.

Bà Lưu Thị Hiền có nghệ danh Nhữ Thị Nhiêm, là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao - Nam Định, bà lấy lẽ ông Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Bà là người hát hay, có tài làm thơ chữ Nôm. Tản Đà là con trai út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này.

Trong những người anh em còn lại, có người anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích, là người có nhiều những ảnh hưởng to lớn tới cuộc đời sau này của Tản Đà. Ông Tích sinh năm 1864, nối nghiệp cha đi thi đỗ Phó bảng và ra làm quan. Ông là người thanh liêm chính trực, nên đường hoạn lộ cũng không yên ổn, sau làm ở cục Tu thư, rồi Hiệu trưởng trường Tân Quy, Đốc học Vĩnh Yên. Tản Đà từ nhỏ sống với ông, phải nhiều lần di chuyển tới những nơi ông Tích được bổ nhiệm: Yên Mô - Ninh Bình, Vụ Bản - Nam Định, Quảng Oai - Sơn Tây, Vĩnh Tường - Vĩnh Yên.

Chân dung nhà thơ Tản Đà

1.2 Sự nghiệp sáng tác 

Từ 1915 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Năm 1915, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ “Khối tình con I”.

Sau thành công đó, ông viết liền cuốn “Giấc mộng con” (cho in năm 1917) và một số vở tuồng: “Người cá”, “Tây Thi”, “Dương Qúy Phi”, “Thiên Thai” (diễn lần đầu năm 1916 tại Hải Phòng).

Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra “Nam Phong tạp chí”, và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn “Khối tình con I” và phê phán cuốn “Giấc mộng con I”, cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau bài phê phán tư tưởng của “Giấc mộng con”, Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm.

Xem thêm: Tiểu sử và sự nghiệp nhà thơ Viễn Phương
Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có “Thần tiền”, “Đàn bà Tàu” (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có “Đài gương”, “Lên sáu” (1919), “Lên tám” (1920), thơ thì có tập “Còn chơi” (1921). Thời kỳ này ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc, Trung kỳ và làm chủ bút “Hữu thanh tạp chí” một thời gian.

Năm 1922, Tản Đà thành lập “Tản Đà thư điếm” (sau đổi thành “Tản Đà thư cục”), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây đã xuất và tái bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; “Tản Đà tùng văn” (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện “Thề Non Nước”, 1922); “Truyện thế gian” tập I và II (1922), “Trần ai tri kỷ” (1924), “Quốc sử huấn nông (1924), và tập “Thơ Tản Đà” (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.

Năm 38 tuổi (1926), Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà cho ra đời “An Nam tạp chí” số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của “An Nam tạp chí”, tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã bắt đầu quãng đời lận đận của ông.

1.3 Phong cách sáng tác

Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một nhà thơ nào được nhiều độc giả yêu mến như Tản Đà. Sau khi thơ mới trở nên phổ biến ở Việt Nam thì cái tên Tản Đà vẫn được yêu thích, trong cuốn Thi nhân Việt Nam – là một trong những cuốn bình luận về thơ mới rất giá trị, bài tưởng niệm Tản Đà được đặt những trang đầu tiên.

Trong sự nghiệp cầm bút của mình, Tản Đà viết được rất nhiều thể loại cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ của ông khiến cho độc giả như được rơi vào cõi mộng, chán ngán đời thực và cũng không thiếu những bài thơ mang tính chiêm biếm ngầm hiện thực.

Thơ của Tản Đà được đánh giá là phóng khoáng, cá tính mang đậm phong cách cá nhân. Tản Đà từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Tờ “An Nam tạp chí” tuy tổng cộng chỉ có 48 số, lại hoạt động thất thường, thiếu chuyên nghiệp nhưng được coi là một trong những tờ đầu tiên có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn học Việt Nam thời cận đại theo khuynh hướng hiện thực.

Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến là một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.

Tiêu biểu cho phong cách thơ của Tản Đà có bài thơ Hầu trời. Tác phẩm được in trong tập thơ “Còn chơi” xuất bản năm 1921. Bài thơ mang nét cá tính của tác giả, mạch thơ được đi theo một câu chuyện cụ thể, hấp dẫn và thuyết phục được bạn đọc. Cái ngông độc đáo của Tản Đà cũng được thể hiện, Hầu trời giúp Tản Đà khẳng định được quan niệm cũng như tài năng của mình.

2. Tuyển tập thơ Tản Đà hay nhất 

Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi. – Xuân Diệu. Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Tản Đà hay nhất sau đây để hiểu hơn về phong cách sáng tác cũng như con người ông bạn nhé !

Tuyển tập thơ Tản Đà hay nhất

Muốn làm thằng Cuội

Đêm thu buồn lắm! Chị Hằng ơi
Trần giới em nay chán nửa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Có bầu, có bạn can chi tủi
Cùng gió, cùng mây thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.

Thề Non Nước

Nước non nặng một nhời thề

Nước đi đi mãi không về cùng non

Nhớ nhời nguyện nước thề non

Nước đi chưa lại non còn đứng không

Non cao những ngóng cùng trông

Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày

Xương mai một nắm hao gầy

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương

Giời tây chiếu bóng tà dương

Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha

Non cao tuổi vẫn chưa già

Non thời nhớ nước, nước mà quên non!

Dẫu rằng sông cạn đá mòn

Còn non còn nước hãy còn thề xưa

Non xanh đã biết hay chưa?

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn

Nước non hội ngộ còn luôn

Bảo cho non chớ có buồn làm chi!

Nước kia dù hãy còn đi

Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui

Nghìn năm giao ước kết đôi

Non non nước nước không nguôi nhời thề.

Thăm mả cũ bên đường

Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà,
Đường xa, người vắng, bóng chiều tà,
Một dãy lau cao làn gió chạy,
Mấy cây thưa lá sắc vàng pha.
Ngoài xa trơ một đống đất đỏ,
Hang hốc đùn lên đám cỏ gà.
Người nằm dưới mả, ai ai đó?
Biết có quê đây hay vùng xa?
Hay là thuở trước kẻ cung đao?
Hám đạn liều tên quyết mũi đao.
Cửa nhà xa cách vợ con khuất,
Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao,
Hay là thuở trước kẻ văn chương?
Chen hội công danh nhỡ lạc đường.
Tài cao phận thấp chí khí uất,
Giang hồ mê chơi, quên quê hương.
Hay là thuở trước khách hồng nhan?
Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen.
Phong trần xui gặp bước lưu lạc,
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.
Hay là thuở trước khách phong lưu?
Vợ con đàn hạc đề huề theo.
Quan san xa lạ đường lối khó,
Ma thiêng nước độc phong sương nhiều.
Hay là thuở trước bậc tài danh?
Đôi đôi, lứa lứa cũng linh tinh
Giận duyên tủi phận hờn ân ái,
Đất khách nhờ chôn một khối tình!
Suối vàng sâu thẳm biết là ai?
Mả cũ không ai kẻ đoái hoài!
Trải bao ngày tháng trơ trơ đó,
Mưa dầu, nắng dãi, trăng mờ soi!
Ấy thực quê hương con người ta
Dặn bảo trên đường những khách qua:
Có tiếng khóc oe thời có thế
Trăm năm ai lại biết ai mà!

>>>XEM THÊM: Top 99+ bài thơ tình yêu của Xuân Diệu hay và ấn tượng nhất

Đời Đáng Chán

Người đời thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê!
Còn ai ai tỉnh ai mê
Những ai thiên cổ đi về những đâu?

Đời đáng chán hay không đáng chán?
Cất chén quỳnh, riêng hỏi bạn tri âm
Giá khuynh thành nhất tiếu thiên câm
Mắt xanh trắng đổi nhầm bao khách tục
Giang hà nhật hạ nhân giai trọc
Thiên địa lô trung thục hữu tình
Đón đưa ai gió lá chim cành
Ấy nhân thế phù sinh là thế thế
Khách phù thế chửa dứt câu phù thế
Người phong lưu càng đượm vẻ phong lưu
Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu
Chuyện kim cổ một vài câu phải trái
Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thuý Ái
Sóng Tiền Đường, cỏ áy bến Ô giang
Ngẫm nghìn xưa: ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang
Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ
Đời đáng chán biết thôi là đủ
Sự chán đời xin nhủ lại tri âm
Nên chăng nghĩ lại kẻo nhầm.

Cảnh Vui Nhà Nghèo

Trong trần thế cảnh nghèo là khổ
Nỗi sinh nhai khốn khó qua ngày
Quanh năm gạo chịu tiền vay
Vợ chồng lo tính hôm rày hôm mai.
Áo lành rách vá may đắp điếm
Nhà ở thuê chật hẹp quanh co
Tạm yên đủ ấm vừa no
Cái buồn khôn xiết, cái lo khôn cùng.
Con đi học con bồng con dắt
Lớn chưa khôn lắt nhắt thơ ngây,
Hôm hôm lớn bé sum vầy
Cũng nên vui vẻ mà khuây nỗi buồn.
Nghĩ thiên hạ cho con đi học
Cảnh phong lưu phú túc nói chi!
Những ai bần bạc hàn vi
Lo buồn, đã vậy, vui thì cũng vui.
Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa
Mắt trông con đứa đứa về dần
Xa xa con đã tới gần
Các con về đủ quây quần bữa ăn.
Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon, nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm giòn
Chồng chồng vợ vợ con con một nhà.
Ăn rồi học, tối qua lại sáng,
Ít tiền tiêu ngày tháng thảnh thơi,
Chiều chiều tối tối mai mai
Miễn sao no đủ, việc đời quản chi!
Con nhà khó nhiều khi vất vả,
Ngoài học đường thư thả được đâu,
Khi thời quẩy nước tưới rau
Chợ tan đón gánh theo sau mẹ già.
Việc giấy bút vẫn là đi học
Cảnh gia đình khó nhọc nhường ai?
Ví chăng có chí có tài
Khi nên, trời cũng cho người làm nên.
Khắp xã hội nghèo hèn ai đó
Mẹ thương con thời cố công nuôi
Những con nhà khó kia ơi
Có thương cha mẹ thời vui học hành!
Cũng chẳng kể thành danh lúc khác
Trời đã cho bước bước càng hay
Nghèo mà học được như nay
Vinh hoa chưa dễ sánh tày cái vui.
Trong trần thế nhiều nơi phú quý
Nỗi buồn riêng ai ví như ai?
Bày ra cái cảnh có trời
Vui buồn cũng ở tự người thế gian.

Lại say

Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say.
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười?
Say chẳng biết phen này là mấy!
Nhìn non xanh chẳng thấy, lại là say.
Quái! Say sao say mãi thế này?
Say suốt cả đêm ngày như bất tỉnh.
Thê ngôn tuý tửu chân vô ích
Ngã dục tiêu sầu thả tự do
Việc trần ai, ai tỉnh ai lo
Say tuý luý nhỏ to đều bất kể.
Trời đất nhỉ, cái say là sướng thế!
Vợ can chồng, ai dễ đã chừa ngay?
Muốn say lại cứ mà say!

Gió thu

Trận gió thu phong rụng lá vàng

Lá rơi hàng xóm, lá bay sang

Vàng bay mấy lá năm già nửa

Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng!

Trận gió thu phong rụng lá hồng

Lá bay tường bắc, lá sang đông

Hồng bay mấy lá năm hồ hết

Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không!

Gần Tết tiễn năm cũ

Tháng một qua rồi, tháng chạp đến
Năm tàn Bính Tý nay gần tết
Ngoài đường tấp nập chợ đi đông
Quang cảnh trông ra gần lại tết
Ông Công ngựa cá đã lên giời
Hạ giới cùng nhau tết đến nơi!
Kẻ có tha hồ vui vẻ tết
Nhà nghèo tết đến cũng lôi thôi!
Tết nhất từ xưa đã biết bao?
Vui xuân năm ấy giống năm nào
Cỗ bàn, bánh pháo mừng thên tuổi
Một bước đời lên, một bước cao
Gần tết bao nhiêu cảnh khác nhau
Người vui sắm sửa, kẻ lo sầu
Phong lưu thiên hạ nghe chừng ít
Lo tết trần gian chẳng thiếu đâu!
Quanh năm luống những túng cùng lo
Tết nhất thêm ra cũng lắm trò
Lễ nghĩa muốn thôi, thôi chẳng dứt
Nợ nần vay trả khất quanh co!
Độp cái, năm tàn chóng hết thôi
Để chi đeo đuổi bận lòng ai
Còn năm luống những lo không dứt
Lo mãi quanh năm chán cả đời
Gần tết bao nhiêu, rát bấy nhiêu
Cái lo đâu đến đủ trăm chiều
Mong sao chóng hết năm tàn đó
Để mấy ngày chi lẵng đẵng theo!
Tiễn năm ta có mấy vần thơ
Năm hết cho người cũng hết lo
Sắp sửa cành nêu, xuân đón chúa
Thử xem năm mới có ra trò!

Gặp xuân

Gặp xuân ta giữ xuân chơi
Câu thơ chén rượu là nơi đi về
Hết xuân, cạn chén, xuân về
Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!
Xuân ơi xuân hỡi!
Vắng xuân lâu ta vẫn đợi, chờ, mong
Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông
Ròng rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết?
Khứ tuế xuân qui, sầu cửu biệt
Kim niên xuân đáo, khách tương phùng
Gặp ta nay xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác, trong lòng ta chẳng khác
Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân nay ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi, đời người ta có nửa
Còn sau nữa lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho, ta chửa hỏi làm chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi
Chỗ quen biết kể gì ai chủ khách
Thiên cổ vị văn song Lý Bạch
Nhất niên hà đắc lưỡng Đông quân
Dẫu trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần
Thơ với rượu cùng xuân, ta cứ thế
Ngoài trăm tuổi, vắng ta trần thế
Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm!
Cùng nhau nay hãy uống thêm!

Nhớ Mộng

Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu dễ ngán đời
Những lúc canh gà ba cốc rượu
Nào khi cánh điệp bốn phương giời?
Tìm đâu cho thấy người trong mộng
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai!

Khách Giang Hồ

Khuất khúc non sông lắm dịp cầu
Những là gió Á với mưa Âu
Đời chưa duyên kiếp ai xanh mắt?
Khách chẳng công danh cũng bạc đầu!
Cảnh cũ đòi phen thay chủ mới
Đường xa kinh nỗi suốt đêm thâu
Giang hồ chưa đã bao nhiêu bước
Mà cuộc trần ai mấy bể dâu!

Gót Sen Lay Động Khách Là Ai 

Phòng văn khép cánh ngót năm giời
Núi tuyết rừng băng những mải chơi
Giấc điệp đương nồng em chửa tỉnh
Gót sen lay động khách là ai?
Trăm năm trần thế duyên hay nợ
Bao cuộc tang thương sắc với tài
Tình cảm bồi hồi khi mở mắt
Con tằm chưa thác, chị em ơi!

Con Chim Xanh

Con chim xanh, tang tình em ơi, nó lặn;
con cá vàng nó dạch, phú lý nọ lên non.
Cô Thúy Kiều, xưa kia còn, má phấn môi son;
lầu xanh chưa mãn, cô mới đã lại bon sang ở chùa.
Cái phận đàn bà, em ơi nghĩ đến thế mà lo;
làm thân bây giờ con gái, sao cho phú lý nọ sớm chồng.
Sự trăm năm, ông giời kia, đã kết có dải đồng;
dù duyên, dù nợ, cái đức tam tùng em cũng phải cho ngoan.
Lấy chồng bây giờ, em ơi gánh lấy mà giang san;
mẹ cha trông xuống, chứ để thế gian có trông vào.
Mặc ai tối mận mai đào.

Đùa Cô Sư 

Ai ai đứng khuất bóng giăng mờ
Cô sử, cô sư khéo thẫn thờ
Cửa Phật những mong tròn quả phúc
Cõi trần sao nỡ dứt duyên tơ?
Vãi già tiểu bé đâu đâu cả?
Chùa vắng sân không thế thế ư?
Tớ dẫu chưa tu, đầu dở trọc
Phen này ốm trọc cũng ra sư

Gió Thu 

Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng!

Trận gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc, lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không!

Chơi Chùa Hương Tích

Chùa Hương giời điểm lại giời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại xuân đi không dấu vết
Ai về ai nhớ vẫn thơm tho
Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
Đá hỏm hang đen tối tối mò
Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối
Phàm trần chưa biết nhắn nhe cho

Chiêu Hoàng Lấy Chồng 

Quả núi Tiêu San, có nhớ công?
Mà em bán nước để mua chồng!
Ấy ai khôn khéo tài dan díu
Những truyện huê tình biết có không?
Một gốc mận già thôi cũng phải
Hai trăm năm lẻ thế là xong
Hỏi thăm sư cụ chùa Chân Giáo:
Khách cưới nhà ai áo mũ đông?

Lưu Tình 

Dưới bóng giăng tròn, tán lá xanh
Nhớ chăng? chăng nhớ? hỡi chăng mình?
Trăm năm ghi nguyện cùng non nước
Nước biếc non xanh một chữ tình

Thơ Thẩn 

Phòng văn lặng ngắt bóng giăng mờ
Ngồi nghĩ thơ mà luống thẩn thơ
Chỉ thắm ai người tơ tưởng mối
Ruột tằm còn những vấn vương tơ
Bụi nhờn mặt trắng da đen sạm
Tuyết nhuộm đầu xanh tóc bạc phơ
Thơ nghĩ chưa ra già đã tới
Buồn chăng ai hỡi, bạn làng thơ!

Trai Thời Loạn

Hai mươi nhăm triệu con người
Trừ ra khăn yếm còn thời mày râu
Chắp tay rồi lại cúi đầu
Nghĩ nguồn cơn ấy ai sầu chăng ai!
Thế mà cũng kiếp làm trai
Con Hồng cháu Lạc cũng nòi giống ta
Ai về nhắn bạn quần thoa
Chồng con như thế xót xa thế nào?
Thương ai phận gái má đào.

Vậy là các bạn vừa được tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tản Đà cùng tuyển tập thơ Tản Đà "bất tử" cùng thời gian. Hi vọng, sau khi chia sẻ cùng bài viết bạn có thêm nhiều trải nghiệm khó quên. Cảm ơn các bạn đã đồng hành cùng bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết sau !

>>>XEM THÊM: Tuyển tập thơ Thế Lữ - người khai sáng nên phong trào Thơ mới

BÀI VIẾT LIÊN QUAN