Nguyễn Công Trứ – một kẻ sĩ, một nhà thơ lớn, độc đáo vào loại có một không hai trong văn học Việt Nam. Ông để lại một sự nghiệp sáng tác hầu như hoàn toàn bằng chữ Nôm. Ngôn ngữ thơ của ông rõ ràng dễ hiểu, gần gũi với quần chúng đông đảo và đặc biệt đậm chất xứ Nghệ. Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ, thơ Nôm Nguyễn Công Trứ còn mãi với thời gian sau đây để có thêm nhiều phút giây trải nghiệm thú vị bạn nhé !
1. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ
1.1 Tiểu sử cuộc đời
Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Nguyễn Công Tấn, đậu cử nhân năm hai mươi bốn tuổi, làm giáo thụ phủ Anh Sơn, Nghệ An, sau thăng làm tri huyện Quỳnh Côi, rồi tri phủ Tiên Hưng, Thái Bình.
Khi quân đội Tây Sơn ra Bắc chiếm Thăng Long, Nguyễn Công Tấn xướng nghĩa cần vương chống lại, không thành, ông đưa gia đình về quê mở trường dạy học. Nguyễn Huệ mấy lần mời ra làm quan, ông đều từ chối.
Mẹ Nguyễn Công Trứ là con gái quan quản Nội thị Cảnh Nhạc bá, họ Nguyễn, người xã Phụng Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Gia đình Nguyễn Công Trứ có sáu anh em, ba trai, ba gái, có một bà rất thông minh, giỏi thơ văn, người đương thời gọi là Năng văn nữ sĩ. Năm mười chín tuổi, chồng chết, bà nhất định không chịu tái giá, bỏ nhà đi tu, được Minh Mệnh ban cho danh hiệu “Trinh tiết khả phong”.
Nguyễn Công Trứ từ bé đã sống trong cảnh nghèo khổ. Khi nhà Nguyễn đang tích cực củng cố địa vị thống trị của mình, xã hội có vẻ ổn định, Nguyễn Công trứ hăm hở đi học đi thi. Năm 1819, ông thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan. Bấy giờ ông đã bốn mươi mốt tuổi.
Năm 1820 Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử quán. Sau đó ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Hào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1824), Phủ thừa phủ Thừa Thiên (1825), Tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ hình (năm 1826). Năm 1828, ông được thăng Hữu tham tri Bộ hình, sung chức Dinh điền sứ, chuyên coi việc khai khẩn đất hoang. Năm 1832, ông được bổ chức Bố Chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An…
Sau nhiều thăng giáng, năm 1845 Nguyễn Công Trứ làm Chủ sự Bộ hình, năm sau làm quyền Án sát Quảng Ngãi, rồi đổi ra làm Phủ thừa Phủ Thừa thiên, rồi năm 1847 ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy. Cũng năm này, ông tròn bảy mươi tuổi ta, Nguyễn Công Trứ xin về hưu, nhưng Thiệu Trị không cho. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, ông được về hưu hẳn.
Chân dung nhà thơ Nguyễn Công Trứ
1.2 Sự nghiệp sáng tác
- Sáng tác của Nguyễn Công Trứ hầu hết bằng chữ Nôm và bị thất lạc nhiều. Hiện nay sưu tầm được khoảng 150 bài gồm thơ, ca trù, phú.
- Ngoài ra ông còn có một số tác phẩm thơ văn chữ Hán.
- Thơ văn ông bao hàm nội dung khá phức tạp, kết tinh trạng thái ý thức của một thế hệ nhà nho như Nguyễn Công Trứ. Nhưng tổng quát, thơ ông tập trung vào ba chủ đề chính:
- Chí nam nhi.
- Cái nghèo và thế thái, nhân tình.
- Triết lí hưởng lạc.
1.3 Các tác phẩm chính
* Ca Trù
- Bài ca ngất ngưởng
- Ca tự biệt (Kẻ về người ở)
- Cái già theo đuổi
- Cầm kỳ thi tửu bài 2 – Chơi cho phỉ chí
- Cầm kỳ thi tửu bài 3 – Còn nhiều hưởng thụ
- Chí anh hào
- Chí làm trai
- Chí nam nhi Làm cho tỏ mặt nam nhi
- Chơi là lãi Vịnh nhân sinh
- Chơi xuân kẻo hết xuân đi (I)
- Chơi xuân kẻo hết xuân đi (II)
- Chữ nhàn bài 1
- Chữ nhàn bài 2
- Chức phận kẻ trượng phu
- Con tạo ghen ghét
- Công khai thác
- Duyên gặp gỡ
- Đánh thức người đời
- Đi quân thứ
- Đồng tiền không quý
- Đường công danh Có chí thì nên
- Gánh gạo đưa chồng
- Kẻ sĩ
- Kiếp nhân sinh (I)
- Kiếp nhân sinh (II)
- Lời tiểu thiếp tự tình
- Một ngày là nghĩa
- Mượn rượu làm vui
- Ngao du thoả chí Thích chí ngao du
- Ngày xuân
- Nhàn nhân với quý nhân Danh chẳng bằng nhàn
- Nhân tình thế thái
- Nợ công danh
- Nợ phong lưu
- Nợ tang bồng
- Quen thú vẫy vùng
- Tài tình
- Tang bồng là nợ
- Thành sự do thiên
- Thoát vòng danh lợi
- Thú nguyệt hoa
- Thú rượu thơ
- Thú say sưa
- Thú thanh nhàn
- Thú tổ tôm
- Trên vì nước dưới vì nhà Nợ nam nhi
- Trong trần mấy mặt làng chơi
- Trường An hoài cổ
- Tuổi già cưới vợ hầu
- Vịnh cảnh Hà Nội
- Vịnh chữ tình
- Vịnh đồng tiền
- Vịnh Hàn Tín
- Vịnh Hậu Xích Bích
- Vịnh Hồ Tây Tây Hồ hoài cổ
- Vịnh Khuất Nguyên
- Vịnh mùa đông (hát nói)
- Vịnh mùa hạ
- Vịnh mùa thu
- Vịnh mùa xuân
- Vịnh Phật
- Vịnh sầu tình
- Vịnh Thuý Kiều
- Vịnh Tiền Xích Bích
- Vịnh Trần Hi Di
- Vịnh Trương Lưu Hầu
- Vịnh tỳ bà
- Vô cầu
- Yêu hoa
*Thơ Nôm
- Bỏ vợ lẽ cảm tác
- Bỡn cô đào già
- Bỡn tình nhân
- Cách ở đời (Cách ăn ở ở đời)
- Cảm tác lúc về già
- Cảnh xa nhà
- Cầm kỳ thi tửu bài 1 (Tự cao)
- Câu đối làm hộ vợ tiễn mình đi thi
- Câu đối Tết: Bầu một chiếc – Nhà hai gian
- Câu đối Tết: Chiều ba mươi – Sáng mồng một
- Câu đối Tết: Nợ có chết ai đâu – Giời để sống lâu mãi
- Câu đối than thân: Tiền bạc của giời chung – Công danh đường đất rộng
- Câu đối tự thuật: Anh em ơi – Trời đất nhé
- Cây cau
- Dại khôn
- Đánh tổ tôm
- Đi thi tự vịnh
- Đời người thấm thoắt
- Đùa quan đại thần
- Hàn nho phong vị phú
- Hoạ bài “Than nghề” của Đình Trai
- Khất nợ thua tổ tôm
- Khuyên người đời
- Làm quan bị cách Con đường làm quan
- Muộn thành đạt
- Nhà thờ thất hoả
- Phận anh nghèo
- Phường danh lợi
- Tết nhà nghèo
- Than cảnh nghèo
- Thất thập tự thọ
- Thầy và tớ
- Thế tình bạc bẽo
- Thế tình đen bạc
- Thế tình đối với người nghèo
- Thói đời
- Thơ đề mo cau
- Thua bạc
- Trách đời
- Trách người đời
- Trách tình nhân
- Trò đời1
- Trống đại cổ
- Trương Lương
- Tự thuật 1
- Tự thuật 2
- Tự thuật bài 1 – Quân tử cố cùng
- Tự thuật bài 2 – Hội gió mây
- Tự thuật bài 3 – Thú điền viên
- Tự thuật bài 4 – Thú ẩn dật (Thú tiêu dao)
- Tự tình Đời người
- Tương tư
- Uống rượu tự vịnh
- Vịnh cảnh nghèo
- Vịnh cây thông
- Vịnh cây vông
- Vịnh Di, Tề
- Vịnh mùa đông
- Vinh nhục Đợi thời
- Vịnh sự đời
- Vịnh văn võ
- Vui cảnh nghèo
2. Sưu tầm những bài thơ Nguyễn Công Trứ hay nhất
Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ hay nhất sau đây để cảm nhận rõ hơn tài năng cũng như bút pháp nghệ thuật của nhà thơ lớn bạn nhé !
Bài Ca Ngất Ngưỡng
Tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ hay nhất
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Chí Nam Nhi
Thông minh nhất nam tử,
Yếu vi thiên hạ kỳ.
Trót sinh ra thời phải có chi chi,
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
Đố kị sá chi con Tạo,
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung,
Làm cho rõ tu mi nam tử.
Trong vũ trụ đã đành phận sự,
Phải có danh mà đối với núi sông.
Đi không chẳng lẽ về không?
Chí làm trai
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh thế thượng thuỳ vô nghệ
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ
Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ
Quyết ra tay lèo lái trận cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi ruợu bầu.
Trò Đời
Một lưng một vốc kém chi mô,
Cho biết chanh chua khế cũng chua.
Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối,
Mà tham con giếc tiếc con rô.
Trăm điều đổ tội cho nhà oản,
Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.
Khó bó cái khôn còn nói khéo,
Dầu ai có quấy vấy nên hồ.
Đi Thi Tự Vịnh
Đi không, há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng
Cảm Tác Lúc Về Già
Kẻ ghét song còn có kẻ ưa,
Nghĩ đâu mà lựa được cho vừa.
Khó giàu đã định thời không oán,
Khôn dại đành hay há dám từ.
Bể học dò nguồn cho chúng trẻ,
Ngày nhàn vui chuyện với người xưa.
Lâng lâng rũ rạch niềm nhân, ngã,
Gẫm thú phồn hoa đáng thế chưa.
Cách Ở Đời
Ăn ở sao cho trải sự đời,
Vừa lòng cũng khó, há rằng chơi?
Nghe như chọc ruột, tai làm điếc,
Giận đã căm gan, miệng mỉm cười.
Bởi số chạy đâu cho khỏi số?
Luỵ người nên nỗi phải chiều người.
Mặc ai, chớ để điều ân oán,
Chung cục thời chi cũng tại trời.
Ca Tự Biệt
Kẻ về người ở
Bồi hồi thay lúc phân kỳ
Khéo quấy người hai chữ tình si
Lửa ly biệt bầng bầng không lúc nguội!
Bát ngát trăm đường bối rối
Biệt thì dung dị, kiến thì nan
Trót đa mang khúc hát cung đàn
Nên dan díu mối tình chưa dứt
Sá nghĩ xa xôi nghìn dặm đất
Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời
Khi ra vào tiếng nói giọng cười
Một ngày cũng là người tri kỷ
Sao nỡ để kẻ vui người tẻ
Gánh tương tư riêng nặng bề bề?
Thương thay người ở đôi quê
Nẻo đi thì nhớ, nẻo về thì thương!
Tính sao cho vẹn trăm đường?
Cảnh Xa Nhà
Nỗi nọ đường kia, xiết nói năng!
Đêm nằm không ngủ, biết mần răng?
Đầu ngành mấy tiếng chim kêu gió
Trước điếm năm canh chó sủa giăng
Phảng phất lòng quê khôn nén được
Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng
Đêm gà eo óc, trời chưa rạng
Tình tự này ai biết hay chăng?
Cái Già Theo Đuổi
Lão trục thiếu lai ưng bất phóng,
Nhục tuỳ vinh hậu định tu quân.
Lò âm dương san sẻ bình phân,
Con tạo hóa cầm cân nhiệm nhặt.
Mới đó đỉnh mây còn ngắt ngắt,
Phút đâu mái tuyết đã phau phau.
Cái khoá dàm là giống ở đâu,
Cứ lẽo đẽo cặp kè hiên cái.
Đôi kẻ biết sao không tỉnh lại,
Dẫu thiên hô vạn hoán cũng u ơ.
Xót cho ta biết bao giờ.
Cây Cau
Ơn chúa vun trồng kể xiết bao
Một ngày càng một rấn lên cao
Lưng đeo đai bạc, sương nào nhuốm?
Đầu đội tàn xanh, nắng chẳng vào
Buồng chất cháu con khôn xiết kể
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào
Kình thiên một cột giơ tay chống
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao
Duyên gặp gỡ
Minh quân lương tướng tao phùng dị
Tài tử giai nhân tế ngộ nan
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên
Trong nhất kiến tình duyên như đã
Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã
Quân tử đa tình cánh khả lân
Nọ mấy người tài tử giai nhân
Duyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lại
Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải
Đã tình duyên xe lại cũng nên gần
Liễu hoa vừa gặp chúa xuân
Châu Trần nào có Châu Trần này hơn
Anh hùng hà xứ bất giang sơn?
Bỡn Tình Nhân
Tao ở nhà tao tao nhớ mi,
Nhớ mi nên phải bước ra đi.
Không đi mi nói răng không đến,
Đến thì mi nói đến làm chi.
Làm chi tao đã làm chi được,
Làm được tao làm đã lắm khi.
Bõ vợ lẽ Cảm Tác
Mười hai bến nước, một con thuyền
Tình tự xa xôi, đố vẽ nên!
Tự biệt nhiều lời so vắn giấy
Tương tư nặng gánh chứa đầy thuyền
Rồi đây nỏ biết quên hay nhớ
Từ đó mà mang nợ với duyên
Tình ấy trăng kia như biết với
Chia làm hai nửa giọi hai bên!
Cầm kỳ thi tửu
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
Dở duyên với rượu khôn từ chén
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời
Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó
Đàn còn phím trúc tính tình đây
Ai say, ai tỉnh, ai thua được
Ta mặc ta mà ai mặc ai!
Kẻ Sĩ
Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.
Có giang sơn thì sĩ đã có tên,
Từ Chu, Hán, vốn sĩ này là quý.
Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị
Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường
Khí hạo nhiên chí đại chí cương
So chính khí đã đầy trong trời đất.
Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tất
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn
Xe bồ luân dù chưa gặp Thang, Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Mang quách cả sở tồn làm sở dụng.
Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi Can Tương
Làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ, sau là khanh tướng.
Kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp tàng hung trung,
Vũ trụ chi gian giai phận sự, nam nhi đáo thử thị hào hùng.
Nước nhà yên mà sĩ được thung dung
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới
Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh
Này này sĩ mới hoàn danh.
Chơi Xuân Kẻo Hết Đi
Ngẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật
Đã sinh người lại hạn lấy năm
Kể chi thằng lên bẩy, đứa lên năm
Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc?
Lại mang lấy lợi danh, vinh nhục
Cuộc đời kia lắm lúc bi hoan
E đến khi hoa rữa trăng tàn
Xuân một khắc, dễ nghìn vàng đổi chác?
Tế suy vật lý tu hành lạc
An dụng phù danh bạn thử thân
Song bất nhân mà lại chí nhân
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi bấy
Nếu không chơi, thiệt ấy ai bù?
Nghề chơi cũng lắm công phu!
Hàn Nho Phong vị Phú
Chém cha cái khó!
Chém cha cái khó!
Khôn khéo mấy ai ?
Xấu xa một nó!
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai:
Bốn vách tường mo,
Ba gian nhà cỏ.
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,
Trước cửa nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, giun đùn lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.
Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi,
Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ.
Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thuỷ mạc lờ mờ,
Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó,
Mỏng lưng xem cũng không giầu,
Nhiều miệng lấy chi cho đủ.
Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y,
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.
Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ.
Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
Gâp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công ?
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần,
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.
Tất do thiên, âu phận ấy là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,
Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.
Mới biết:
Khó bởi tại trời,
Giàu là cái số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,
Cũng bất quá thủ tài chi lỗ.
Vậy là các bạn vừa được tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Công Trứ cùng tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ "bất tử" cùng thời gian. Hi vọng, sau khi chia sẻ cùng bài viết bạn có thêm nhiều trải nghiệm khó quên. Cảm ơn các bạn đã đồng hành cùng bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết sau !
>>>ĐỪNG BỎ LỠ: Thơ Bà Huyện Thanh Quan - tuyển tập những bài thơ hay nhất