Tập thơ Huy Cận - nơi con chữ thẫm đẫm một nỗi sầu vạn kỉ

Thiều Hoa » Blog » Thơ hay » Tập thơ Huy Cận - nơi con chữ thẫm đẫm một nỗi sầu vạn kỉ
Theo dõi Thiều Hoa trên Thiều Hoa Google News
Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Huy Cận hay nhất sau đây để chọn cho mình bài thơ yêu thích nhất bạn nhé !

Say mê sống và cũng say mê sáng tạo, Huy Cận là người đam mê thơ ca từ nhỏ. Có lẽ không chỉ vì không khí gia đình, quê hương mà vì ông có một tâm hồn nhạy cảm. Thơ ông mang nét trầm buồn của thế hệ. "Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á… đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này.”(Hoài Thanh). Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Huy Cận hay nhất sau đây để cảm nhận bạn nhé !

1. Đôi nét về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận

1.1 Tiểu sử:

Huy Cận tên đầy đủ là Cù Huy Cận, ông sinh năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình nhà nho nghèo.

Ngày còn bé Huy Cận học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.

nha-tho-huy-can

Chân dung nhà thơ Huy Cận

Sau cách mạng tháng 8, Huy Cận giữ nhiều trọng trách quan trọng trong chính quyền cách mạng. Sau này ông làm thứ trưởng Bộ Văn Hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng bộ trưởng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụ trách công tác văn hóa và văn nghệ.

Từ năm 1984, ông là chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I,II và VII. Tháng 6, năm 2001, ông được bầu làm viện trưởng Viện hàn lâm Thơ Thế giới.

Huy Cận mất ngày 16, tháng 2, năm 2006, tại Hà Nội.

Các giải thưởng:

  • Năm 1996, Huy Cận đã được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
  • Tháng 06/2001, Huy Cận được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.
  • Ngày 23/02/2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.

1.2 Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận:

Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận chia thành hai giai đoạn:

- Giai đoạn trước tháng 8 năm 1945: Năm 1940, nhà thơ Huy Cận cho in tập thơ " Lửa thiêng" gồm những bài đã đăng trên báo từ năm 1936-1940. Tập thơ này mang một nỗi buồn da diết, thiên nhiên thì bao la, hiu quạnh. Nhưng chính tập thơ này Huy Cận trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ Mới (1932-1941) lúc bấy giờ. Ông còn nhiều tập thơ khác được in trên báo. Các tác phẩm như Kinh cầu tự (1942, văn xuôi triết lí) và Vũ trụ ca (thơ đăng báo 1940-1942)... đã mang một một màu sắc tươi mới hơn.

- Giai đoạn sau tháng 8 năm 1945: Giai đoạn này thơ của Huy Cận chủ yếu là hô hào, ngợi ca cuộc sống mới, con người mới, nên giá trị nghệ thuật không cao. Ông cũng sáng tác một số tác phẩm về biển. Các tập thơ như: Trời mỗi ngày lại sáng, NChiến trường gần đến chiến trường xa, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Hai bàn tay em (thơ thiếu nhi), Họp mặt thiếu niên anh hùng, Những người mẹ, những người vợ, Ngày hằng sống ngày hằng thơ, Ngôi nhà giữa nắng, Hạt lại gieo, hững năm sáu mươi.

1.3 Các tác phẩm chính:

- Trước cách mạng tháng 8 có những tập thơ tiêu biểu: Lửa thiêng(1940), Vũ trụ ca(1942) và 2 tập văn xuôi: Tâm sự gái già (1940), Kinh cầu tự (1942)

- Sau cách mạng tháng 8 gồm những tập thơ tiêu biểu: Trời mỗi ngày lại sáng(1958), Đất nở hoa(1960), Hai bàn tay em (1967), Hạt lại gieo (1984) và nhiều tác phẩm khác.

2. Tập thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám mang nỗi sầu vạn kỉ

Trước cách mạng tháng Tám Huy Cận viết khá nhiều, nổi lên với hai tập thơ "Lửa thiêng"(1940) và "Vũ trụ ca"(1942). Ở giai đoạn này, thơ của ông mang nỗi buồn man mác, thiên nhiên thì bao la, hiu quạnh. Tuy nhiên, những tác phẩm của ông ở giai đoạn đã đạt giá trị nghệ thuật đỉnh cao. Chính tập thơ "Lửa thiêng" đã mang tên tuổi của Huy Cận trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ Mới (1932-1941) lúc bấy giờ. Cùng chia sẻ tập thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám sau đây để cảm nhận bạn nhé !

Tràng giang

tho-Huy-Can-01

Bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Ngậm Ngùi

Nắng chia nửa bãi, chiều rồi...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ...
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...

Áo Trắng

Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước toả hồng.

Em đẹp bàn tay ngón ngón thon;
Em duyên đôi má nắng hoe tròn.
Em lùa gió biếc vào trong tóc
Thổi lại phòng anh cả núi non.

Em nói, anh nghe tiếng lẫn lời;
Hồn em anh thở ở trong hơi.
Nắng thơ dệt sáng trên tà áo,
Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.

Đôi lứa thần tiên suốt một ngày.
Em ban hạnh phúc chứa đầy tay.
Dịu dàng áo trắng trong như suối
Toả phất đôi hồn cánh mộng bay.

Buồn Đêm Mưa

Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...

Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn

Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi...

Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...

Tương tư hướng lạc phương mờ...
Trở nghiêng gối nặng hững hờ nằm nghe

Gió về, lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư...

Vạn Lý Tình

Người ở bên trời ta ở đây;
Chờ mong phương nọ, ngóng phương nầy.
Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm,
Vạn lý sầu lên núi tiếp mây.

Nắng đã xế về bên xứ bạn;
Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy.
Trông vời bốn phía không nguôi nhớ,
Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay.

Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt,
Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày.
Chiếu chăn không ấm người nằm một -
Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay.

Tình Tự

Sáng hôm nay hồn em như tủ áo,
Ý trong veo là lượt xếp từng đôi.
Áo đẹp chưa anh! Hoa thắm thêu đời,
Áo mơ ước anh bận giùm chiếc nhé.
Vàng rạng cùng xanh, hồng cười với tía,
Xin mời anh chọn hình sắc yêu đương.
Hồn em đây đủ muôn ánh nghê thường,
Anh hãy bận hồn em màu sáng chói.

Anh có biết hôm nay là ngày hội
Của lòng ta. Em trần thiết, trang hoàng.
Anh đã về; em nghe dưới chân vang
Hoa lá nở với chuông rền giọng thắm.
Thủa chờ đợi, ôi, thời gian rét lắm,
Đời tàn rơi cùng sao rụng cảnh canh thâu;
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,
Gió than thở biết mấy lời van vỉ?

Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ,
Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa.
Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ,
Tình rộng quá, đời không biên giới nữa.
Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở.
Màu thanh thiên rời rợi, gió long lanh:
Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh

Chiêm Bao

Chiêm bao thỉnh thoảng em về
Mắt còn toả mộng cuồng mê thuở đầu.
Gặp nhau không ngợ ngàng nhau
Má xuân trời cũ động màu ráng xưa
Chiêm bao yêu muộn nhớ thừa
Là nơi họp mặt ngày đưa tiễn rồi.
Thân dù sông núi xa xôi
Giấc mơ qua lại lứa đôi tự tình
Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình
Chiêm bao em có một mình chăng em?
Đời buồn lạnh gối đêm đêm
Biệt ly gì mộng! Nhớ tìm thăm nhau.

Muộn Màng

Anh biết yêu em đã muộn màng
Nhìn em trăm bận chỉ nhìn ngang
Biết rằng nhìn thẳng thêm đau đớn
Anh sợ tình ta sẽ dở dang

Muốn trốn em, mà trốn được nào
Mắt em thầm gọi sắc như dao
Mỗi lần gặp lại lòng đau điếng
Trốn cả lòng anh, trốn được sao!

Em hỡi lòng anh yêu đã sâu
Yêu em ngay tự thuở ban đầu
Gặp em như nén lòng anh lại
Em đẹp, lòng anh lại nhói đau

Em hỡi! Yêu nhau chẳng muộn màng
Lửa bền trong đá mấy muôn năm
Lửa đôi ta chẳng cùng nhau đượm
Sẽ đốt lòng ta ra bụi than.

Tình Đau Một Thuở

1. Trưa nay suối biết nỗi niềm
Vui này đã nguyện đến tìm nước đưa
Lòng vui lừng suối ban trưa
Nghìn năm rồi lại mơ hồ chiêm bao

2. Đã rằng nương bóng trăng thanh
Đêm đêm em đến thăm tình có ta
Ta còn, em cũng chưa xa
Yêu nhau kẻ thực, người ma, não lòng!

3. Giã từ, từ giã hoa ân ái
Một nửa tàn phai, một nửa tươi
Môi cắn máu thâm cho khỏi khóc
Yêu em anh lại ngẩn ngơ cười.

Tâm Sự

Chiều ơi! Hãy xuống thăm ta với!
Thiên hạ lìa xa, đời trống không.
Nắng xế ngậm ngùi trên mái cũ;
Đìu hiu bên phố, nhớ bên lòng.

Ta biết quen chiều tự thuở xưa,
Tim nghe xa vắng rộng không bờ
Một ngày trời đẹp bâng khuâng quá:
Ấy buổi đầu tiên bạn bút tờ.

Đã mấy năm rồi thơ nở hoa,
Trang vui cũng lúc lệ buồn nhoà.
Dòng đời cũng nặng sầu lưu thuỷ,
Tóc nặng sầu tư gió thổi tà.

Chiều ơi! Gặp gỡ đã đòi cơn,
Sương lạnh dồn thêm lệ tủi hờn,
Một buổi xưa kia phòng vắng bạn,
Đó ngày quen biết với cô đơn.

Có lúc xa người, bởi quá yêu,
Than ôi! Sông núi lại buồn nhiều.
Mây xa lạc gió bên trời vắng,
Đời bạt lòng ta, - lại gặp nhiều.

Kể lể tâm hồn đã bấy lâu:
Hôm nay nhìn lại nhớ thương đầu,
Một mình cũng muốn câu tâm sự:
Chiều xuống cùng ta đặng có nhau.

Giấc Ngủ Chiều

(Tặng Hoàng Đạo)

Thức dậy, nắng vàng ngang mái nhạt,
Buồn gieo theo bóng lá đung đưa
Bên thềm, - Ai nấn lòng tôi rộng,
Cho trải mênh mông buồn xế trưa.

Than ôi, trời đẹp nhưng trời buồn,
Như cảnh tươi màu rạp cải lương.
Tôi đội tang đen cùng mũ trắng,
Ra đi không hẹn ở trên đường.

Rưng rưng hoa phượng màu thương nhớ;
Son đậm bên thành một sắc xưa;
Cánh rực đòi cơn rơi lối đỏ,
Bên chân ghi đọng dấu bao giờ.

Không khí vờn xoay, mộng rã tan;
Tưởng như tim đã cũ muôn vàn.
- Thâu qua cái ngáp dài vô hạn
Hình ảnh lung linh vũ trụ tàn.

>>>XEM THÊM: Tuyển tập thơ Giang Nam - quê hương trong dáng em cười

3. Tập thơ Huy Cận sau cách mạng tháng Tám mang niềm vui phơi phới

Nếu như trước cách mạng tháng Tám, hồn thơ của Huy Cận mang nỗi buồn vạn kỉ thì sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại phơi phới niềm vui, tràn đầy sức sống. Giai đoạn này thơ của Huy Cận chủ yếu là hô hào, ngợi ca cuộc sống mới, con người mới nên giá trị nghệ thuật không cao. Sau đây là một số bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau cách mạng tháng Tám mà Thieuhoa đã sưu tầm được.

Đoàn thuyền đánh cá

Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Các vị La Hán chùa Tây Phương

Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?

Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.

Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.

Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn...

Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.

Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.

Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.

Có thực trên đường tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị đau theo lòng chúng nhân?

Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu?
Sống lại cho tôi hỏi một câu:
Bác tạc bấy nhiêu hình khổ hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau?

Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão
Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời
Là cha ông đó bằng xương máu
Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.

Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can, vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu.

Đứt ruột cha ông trong cái thuở
Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hi vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.

Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa sương tà.

Các vị La Hán chùa Tây Phương!
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.

Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần!
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.

Con chim chiền chiện

Con chim chiền chiện
Bay vút, vút cao
Lòng đầy yêu mến
Khúc hát ngọt ngào.

Cánh đập trời xanh
Cao hoài, cao vợi
Tiếng hót long lanh
Như cành sáng chói

Chim ơi, chim nói
Chuyện chi, chuyện chi?
Lòng vui bối rối
Đời lên đến thì...

Tiếng ngọc trong veo
Chim gieo từng chuỗi
Lòng chim vui nhiều
Hát không biết mỏi

Chim bay, chim sà
Lúa tròn bụng sữa
Đồng quê chan chứa
Những lời chim ca.

Bay cao, cao vút
Chim biến mất rồi
Chỉ còn tiếng hót
Làm xanh da trời...

Con chim chiền chiện
Hồn xanh quê nhà
Sáng nay lại hót
Tưng bừng lòng ta.

Giữa Lòng Thế Kỉ

Thế kỷ hai mươi!
Ngươi mang trong lòng ngươi
Bao nhiêu mầm ung độc,
Bao nhiêu nụ hồng đời.
Sau lưng đêm nặng trùm chân núi,
Trước ngực trăng dào dạt biển khơi.

Thế kỷ hai mươi!
Chôn rau nhân loại trong tiền sử,
Mà đến ngày nay khóc chửa thôi?
Ta muốn ôm nguôi lòng thế kỷ,
Tủi cực nghìn xưa thôi rên rỉ.
Chuyên cần đất tốt hạt còn tươi.
Ta ấp thời gian nở nụ cười.

Thế kỷ hai mươi!
Bước đường đi đến nửa.
Ta nhìn lên mặt trời,
Vũ trụ chưa tàn lửa.

Hãy đem đốt bao nhiêu mầm thối rữa,
Hãy đem nhen bao nhiêu bếp đang sôi;
Đốt trăm bùa trên trăm ngàn thứ cửa,
Hãy thanh quang soi rạng lại mặt Người.

Đường thế kỷ
Toả nắng vàng bình trị.
Men hân hoan đang sôi sục bàn chân.
Ngày tuổi nhỏ giấc ngủ chiều ma quỷ,
Tâm tư ơi! Đây ánh sáng trong ngần.

Thế kỷ hai mươi!
Đã chết cả loài dơi
Bay sờ soạng trong hoàng hôn tàn tạ.
Ta nghe hát trong trời xanh, trên hoa lá,
Trong tâm tư một khúc hát tình khôi.
Nằm giữa lòng thế kỷ,
Nghe bay thoát lên tự lòng xương tuỷ
Dòng tâm tư ấp úng buổi tiền thân.
Nghe xương sống ca bài ca hùng vĩ
Của ngàn muôn thế hệ ngẩng lên dần.

Thế kỷ hai mươi!
Ngươi mang trong lòng ngươi
Bao nhiêu mầm ung độc,
Bao nhiêu nụ hồng đời;
Đau thương thế kỷ đà khô cháy,
Hoa nở, mùa gây lại vốn Người.

Gặt lúa đêm trăng

Đêm trăng này lúa chín
Bộ đội đi qua làng
Các anh xuống gặt hộ
Phòng ngày mai giặc sang.

Lấy thêm liềm thêm hái,
Mượn thêm gánh thêm quang;
Người người cúi xuống ruộng,
Tay khoát khoát lúa vàng,
Vui tựa tằm ăn rỗi
Rào rào trong đêm trăng.

Cười nói nấp chân đê,
Súng dựng chờ mọi ngả,
Gió mát trăng đầu hè,
Lúa thơm vào tận dạ.

Sao cuối cùng vừa lặn
Chân ruộng cũng gặt bằng.
Yêu nhớ anh bộ đội
Gặt lúa giùm đêm trăng.

Tiếng dân tộc

Bạn nói hoa phặc phiền
Trên núi cao đẹp lắm.
Mắt tôi chưa nhìn hoa
Mà lòng tôi thấy thắm.

Bạn đọc bài thơ xuân
Nói niềm vui phát động,
Tôi chỉ nghe được vần,
Mà lòng tôi xúc động.

Hoa đẹp trên núi cao,
Thơ dạt dào điệu trẻ,
Hồn bạn nở tươi màu
Trong lòng tiếng mẹ đẻ.

Thuở trước khi làm thơ
Trân trọng tiếng nước nhà,
Lòng tôi trăm tủi cực
Tiếng buồn vì nước mất.

Nay mùa xuân đến rồi
Trăm hoa đều đua nở,
Miền ngược đến miền xuôi,
Tiếng Kinh cùng tiếng Thổ.

Nay vần thơ tiếng Thổ
Điệp vần thơ tiếng Kinh
Nói vui buồn, tin tưởng
Của dân tộc chúng mình.

Mắt Bác Hồ soi ấm
Lòng đất nước xôn xao,
Hồ Tây đào nở thắm,
Phặc phiền bừng núi cao.

Trời mỗi ngày lại sáng
Trời mỗi ngày lại sáng
Như cơm trắng mỗi ngày.
Và cuộc đời mang nặng
Sự nghiệp những bàn tay.

Đất nằm đất gieo mùa
Chín hạt vàng năm tháng.
Những bàn tay thêu thùa
Những mùa thơm gió nắng.

Quê hương ta hàn gắn
Những vết đạn mười năm.
Lúa xoá vành đai trắng,
Ngô khoai lấp miệng hầm.

Cuộc sống còn khó nhọc
Nhưng đời đổi mới rồi.
Tiếng con trẻ ngồi học
Giục mùa xuân đâm chồi.

Quê ta trời lại xanh
Gió quê ta lại mát,
Con sông quê nước lành
Chợ chiều thơm dào dạt.

Nửa mùa xuân

Đêm nay, tôi nhìn bản đồ đất nước
Treo trên tường. Rách xước nửa mùa xuân.
Tiếng gà tan canh dường cũng phân vân
Sáng một nửa và tối còn một nửa.
Ngày sáng chói bay về từ vũ trụ
Đậu xuống đây cũng ố nửa hào quang:
Ánh sáng đau trong tia sáng ngợ ngàng
Phải ngừng lại ở giữa mình đất nước
Như khi gãy giữa đường may, ấm ức.

Thuở xưa kia đời nô lệ, đến trường
Không Việt Nam, chỉ có “xứ Đông Dương”
Với ba khúc đất quê nhà bằm xé
Trên cái thớt của quân thù. - Trời bể
Cũng mất luôn tên mẹ đặt bao đời.
Bây giờ, nửa đất nước sáng rồi.
Bản đồ nở một mùa xuân rộ.
Hà Nội thủ đô huy hoàng cờ đỏ.
Toa đường tàu đi, dây mến dây thương.
Đây biển Đông soi bóng dải Trường Sơn
Với chớp bể mưa nguồn từ những thuở.
Đây những đoá hoa hồng mới nở:
Khu Tự trị Thái - Mèo hớn hở xanh trong
Ghế liền vai khu Việt Bắc anh hùng;

Đây nhà máy: những búp mầm xã hội;
Rìa chân núi những nông trường một tuổi;
Đây dòng xuân những thác xối đập cao;
Đây lúa vàng bát ngát như trời sao;
Đây hạnh phúc đang bước vào cuộc sống.
Quê hương ơi! Triệu triệu niềm hy vọng.
Sờ bản đồ ấm nóng cả bàn tay...

Còn nửa quê hương bóng tối phủ dày.
Bản đồ giận hằn lên sông núi.
Đây trại tập trung xếp dài thành chuỗi.
Đây Hướng Điền, đây Chợ Được, đây Duy Xuyên.
Đây, đêm ngày gâu một lũ cuồng điên

Đang giãy giụa. Nhưng đây bền tranh đấu
Sức dân mạnh như sóng ngầm vỗ thấu
Mỗi làng con, mỗi phố hẻm, mỗi đường băng,
Mỗi đêm ngày là biển động trào dâng.

Nhìn bản đồ Tổ Quốc
Treo trên tường rách xước nửa mùa xuân,
Để tay lên: nghe máu đập khắp thân
Của đất nước. Xuân toàn đồ sẽ mở.

Xin nhớ, đừng quên!

Ai qua đây xin nhớ, đừng quên
Chúng đã giết, triệu người chúng giết.
Máu còn tanh, thịt người còn khét.
Ai qua đây xin nhớ, đừng quên!

Quên làm sao! Vạn thuở khôn quên
Vết nhục lớn trong lòng dân Đức,
Trong lương tâm loài người vết nhục
Quên làm sao! Xin nhớ đừng quên!

Ai qua đây xin nhớ, đừng quên
Mỗi mạng người chỉ hai mươi phút
Vừa hạ thủ, lột da và đốt,
Nạy răng vàng, xén tóc làm len.

Các mẹ ơi! Xin nhớ, đừng quên
Các em bé ngây thơ cũng chết
Tay còn vẽ cành hoa núi tuyết,
Chúng thuộc da em khâu ví đựng tiền!

Các bạn ơi! Xin nhớ, đừng quên!
Ngọn lửa lục ngày đêm ngun ngút
Đã đốt rụi những người con yêu nước
Của khắp Châu Âu, xin nhớ, đừng quên!

Chính nơi đây, tâm sự với thiên nhiên
Gớt từng nói, nhìn trời đất rộng:
“Đây là nơi con người đáng sống,
Lòng tự do, bốn biển anh em”.

Ai qua đây xin nhớ, đừng quên!
Chúng chưa chết, những loài phát xít.
Lũ quỷ sứ còn thêm mùi thịt khét,
Thèm lột da người không kể trắng hay đen.

Ta phải nhớ, ta còn phải nhớ,
Phải đập nát tay loài man rợ;
Trong lòng ta thù hận giữ bền
Để mai sau con cháu chúng ta quên.

Cây Chuối

Cây chi lá lại làm cành
Hoa làm ngọn đỏ, trái thành bàn tay.
Lá non lụa nõn trải bày
Áp vào mát má những ngày trẻ thơ.
“Chẳng bao tháng đợi năm chờ”.
Đầu xuân trồng đó tết giờ đã ăn.
Thịt vàng đã ngọt mười phân,
Cốm xanh điểm ngọc bội phần mát thơm.
Chuối xanh xanh bãi, xanh vườn
Em trồng khóm chuối sân trường cũng xanh.
Chuối ơi, lấy lá làm cành,
Che hầm trú ẩn, lại dành trái ngon...

Buổi trưa hè

Buổi trưa lim dim
Nghìn con mắt lá
Bóng cũng nằm im
Trong vườn êm ả.

Bò ơi, bò nghỉ
Sau buổi cày mai
Có gì ngẫm nghĩ
Nhai mãi, nhai hoài...

Thóc hợp tác phơi
Bên sân đình rộng
Nghe đảo từng hồi
Lúa rơm thơm nóng.

Hoa đại thơm hơn
Giữa giờ trưa vắng
Con bướm chập chờn
Vờn đôi cánh nắng.

Bé chưa ngủ được
Bé nằm bé nghe
Âm thầm rạo rực
Cả buổi trưa hè.

Con tằm ăn dâu
Nghe như mưa rào;
Bà dậy thay lá
Tay già lao xao.

Bé gọi con dế
Quen nấp đầu hồi
Dế kêu the thé:
Giật mình bưởi rơi.

Hai bàn tay em

Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành
Hoa hồng hồng nụ
Cánh tròn ngón xinh.

Đêm em nằm ngủ
Hai hoa ngủ cùng
Hoa thì bên má
Hoa ấp cạnh lòng.

Buổi sáng em dậy
Hai bàn tay hoa
Nở trên mặt mẹ
Cúi bồng em ra.

Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài
Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai.

Giờ em ngồi học
Bàn tay siêng năng
Nở hoa trên giấy
Từng hàng giăng giăng.

Hai bàn tay em
Có lúc cãi nhau:
Và cơm, viết chữ
Tay mặt công lao!

Tay mặt tự hào
Gánh bao việc nặng!
Cả giơ tay chào
Như măng mọc thẳng.

Tay trái nó dỗi
Ngoảnh mặt, quay lưng
Nhưng rồi thương bạn
Lại làm việc chung.

- Cùng khiêng chiếc ghế
Ai nắm, ai đừng?
Chung bát cơm nhé:
Anh và, tôi bưng!

Rồi khi vui vầy
Tay cùng vỗ tay
Vui san sẻ đều
Chẳng ai bì ai.

Những lúc em buồn
Tay ôm má phịu -
Em yêu bàn tay
Cái gì cũng hiểu...

Có khi một mình
Nhìn tay thủ thỉ:
- Em yêu em quý
Hai bàn tay em.

Áo thời gian

Đêm cuối năm rồi gà gáy giục
Ơi mặt trời đưa xuân mọc lên
Thời gian nghe nở nhanh từng phút
Như phố hoàng hôn bật ánh đèn.

Mải sống quanh năm với tháng năm
Như quen áo mặc, chiếu giường nằm
Ngỡ năm tháng cũng là da thịt
Rượu mạnh thời gian ta sủi tăm.

Mai đây trần trụi đi về đất
Năm tháng như là chiếc áo phơi
Quên ở ngoài vườn, ao lặng lẽ
Có hoa râm bụt cúi mình soi.

Em hơi, bên anh em thở đều
Thời gian chung tấm mặc cho nhau
Cuối năm gà gáy dày thêm sợi
Vũ trụ choàng ta áo ấm sao!

Vậy là các bạn vừa được tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận cùng tuyển tập thơ Huy Cận "bất tử" cùng thời gian. Hi vọng, sau khi chia sẻ cùng bài viết bạn có thêm nhiều trải nghiệm khó quên. Cảm ơn các bạn đã đồng hành cùng bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết sau !

BÀI VIẾT LIÊN QUAN