Tuyển tập thơ Bạch Cư Dị - đỉnh cao văn chương cổ Trung Hoa

Thiều Hoa » Blog » Thơ hay » Tuyển tập thơ Bạch Cư Dị - đỉnh cao văn chương cổ Trung Hoa
Theo dõi Thiều Hoa trên Thiều Hoa Google News
Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Bạch Cư Dị hay nhất sau đây để có thêm nhiều giây phút trải lòng thú vị bạn nhé !

Bạch Cư Dị là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. Các tác phẩm thơ của ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo, thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Cùng Thieuhoa chia sẻ tuyển tập thơ Bạch Cư Dị hay nhất sau đây để cảm nhận bạn nhé !

Đôi nét cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Bạch Cư Dị

Tiểu sử

Bạch Cư Dị (chữ Hán: 白居易; 772 - 846), biểu tự Lạc Thiên (樂天), hiệu Hương Sơn cư sĩ (香山居士), Túy ngâm tiên sinh (醉吟先生) hay Quảng Đại giáo hóa chủ (廣大教化主), là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Đối với một số người yêu thơ văn thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ.

Tổ tiên ông là người gốc Thái Nguyên, Sơn Tây, sau di cư tới huyện Vị Nam, Thiểm Tây. Năm 15 tuổi ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động.

Năm Trinh Nguyên thứ 16 (năm 800), ông thi đỗ tiến sĩ được bổ làm quan trong triều, giữ chức Tả thập di. Do mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào tham quân ở Kinh Triệu.

Năm Nguyên Hòa thứ 10 (815), do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, nhóm quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm Tư mã Giang Châu. Giai đoạn từ năm 822 tới năm 824 làm Thứ sử Hàng Châu, năm 825 tới năm 826 làm Thứ sử Tô Châu, sau được triệu về kinh làm Thái Tử Thiếu phó.

Năm Hội Xương thứ 2 (842) về hưu với hàm Thượng thư bộ Hình, sau mất tại Hương Sơn, Lạc Dương.

Chân dung nhà thơ Bạch Cư Dị

Phong cách thơ văn của Bạch Cư Dị

Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận ca kể mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần Trung Ngâm, Tân Nhạc Phủ).

Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai (Nghị hôn).

Ông chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự, phản ánh nổi thống khổ của nhân dân Trung Quốc đương thời nên gây được cảm xúc mạnh. Thơ ông giàu tính trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Giang Tây, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường học, chùa chiền, quán trọ.... đều có đề thơ của mình, nên càng tự tin ở chủ trương của mình hơn.

Riêng hai bài Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo; bài thì hoà đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người gẩy -người nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang.

Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền, về Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân tình thế thái. Ông để lại khoảng trên 2.800 bài thơ.

Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Bạch Cư Dị

Chia sẻ cho bạn đọc các thông tin quan trọng về sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Bạch Cư Dị.

Năm 15 tuổi ông đã bắt đầu làm thơ. Vì thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê nên ông đã sớm am tường nỗi vất vả của người lao động.

Những năm đầu, ông cùng Nguyên Chẩn ngâm thơ, uống rượu, được người đời gọi là Nguyên Bạch. Sau này, khi Nguyên Chẩn mất, lại cùng Lưu Vũ Tích, hợp thành cặp Lưu Bạch.
Bạch Cư Dị là người chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức.

Đối với ông, mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân. Do đó thơ của ông lan truyền trong dân gian, đương thời lúc ông còn sống thơ ca của ông đã phổ biến khắp Đại Đường và có ảnh hưởng đến các nước lân bang như Cao Ly, Đại Việt, Tân La, Nhật Bản,…

Một số tác phẩm nổi bật của Bạch Cư Dị nói về hiện thực cuộc sống dân chúng có thể kể đến như Tỳ bà hành, Quan ngải mạch, Mại thán ông, Liễu lăng,….

Ngoài ra Bạch Cư Dị còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền, về Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân tình thế thái.

Những kiệt tác thơ Bạch Cư Dị "bất tử" cùng thời gian

Thơ Bạch Cư Dị bình dị, chân thực, thâm thúy, hóm hỉnh và giàu tính nhân văn. Ngoài cái tài kể chuyện, tả cảnh, tả tình, châm biếm, trào lộng… ông còn có tài phát hiện, tài sắp xếp dẫn dắt các tình tiết, sự kiện, hình ảnh… khiến cho thơ ông có sức hấp hẫn, lôi cuốn đặc biệt. Cùng chia sẻ tuyển tập thơ Bạch Cư Dị hay nhất sau đây để cảm nhận bạn nhé !

Tỳ Bà Hành

Bài thơ "Tì Bà Hành" của Bạch Cư Dị

Tiếng Hán:

琵琶行

潯陽江頭夜送客,
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦。
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽流景水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才服,
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船明月江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
往近湓城地底濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,
江州司馬青衫濕。

Phiên âm:

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền,
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.
Tuý bất thành hoan thảm tương biệt,
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.
Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh,
Chủ nhân vong quy khách bất phát.
Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ,
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì.
Di thuyền tương cận yêu tương kiến,
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai,
Do bão tỳ bà bán già diện.
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình.
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,
Tự tố bình sinh bất đắc chí.
Đê mi tín thủ tực tực đàn,
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu,
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu.
Đại huyền tào tào như cấp vũ,
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,
U yết lưu cảnh thuỷ hạ than.
Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.
Biệt hữu u sầu ám hận sinh,
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính,
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch,
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.
Thập tam học đắc tỳ bà thành,
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.
Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.
Điền đầu ngân tì kích tiết toái,
Huyết sắc la quần phiên tửu ố.
Kim niên hoan tiếu phục minh niên,
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.
Đệ tẩu tòng quân a di tử,
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,
Lão đại giá tác thương nhân phụ.
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn.
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,
Mộng đề trang lệ hồng lan can.
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức,
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương thức.
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành.
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc,
Chung tuế bất văn ty trúc thanh.
Trú cận Bồn giang địa thế thấp,
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.
Kỳ gian đán mộ văn hà vật,
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,
Âu á triều triết nan vi thính.
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.
Thê thê bất tự hướng tiền thanh,
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp.
Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa,
Giang Châu tư mã thanh sam thấp.

Dịch thơ:

Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khi hầu rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
Trước “Nghê thường”, sau thoắt “Lục yêu”.
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, đau giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mải gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại sầu dì thác,
Lần hôm mai đổi khác hình dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
Mải buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.
Ðêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
Nghe đàn ta đã chạnh buồn,
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời.
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Dén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.

>>>XEM THÊM: Thơ Lý Bạch - tuyển tập những kiệt tác kinh điển mọi thời đại

Bạch Lộ

Tiếng Hán:

白鷺

人生四十未全衰,
我為愁多白髮垂。
何故水邊雙白鷺,
無愁頭上亦垂絲?

Phiên âm:

Nhân sinh tứ thập vị toàn suy,
Ngã vị sầu đa bạch phát thuỳ.
Hà cố thuỷ biên song bạch lộ,
Vô sầu đầu thượng diệc thuỳ ty?

Dịch thơ:

Người đời bốn chục vẫn chưa già
Ta lắm chuyện buồn tóc bạc ra!
Hà cớ cặp cò bên cạnh nước
chẳng buồn đầu cũng trắng tơ xoà?

Bành Lễ Hồ Vãn Quy

Tiếng Hán:

彭蠡湖晚歸

彭蠡湖天晚,
桃花水气春。
鳥飛千白點,
日沒半江輪。
何必為遷客,
無勞是病身。
但來臨此望,
少有不愁人。

Phiên âm:

Bành Lễ hồ thiên vãn,
Đào hoa thuỷ khí xuân.
Điểu phi thiên bạch điểm,
Nhật một bán giang luân.
Hà tất vi thiên khách,
Vô lao thị bệnh thân.
Đãn lai lâm thử vọng,
Thiểu hữu bất sầu nhân.

Dịch thơ:

Hồ Bành Lễ chiều rồi,
Khí nước đào xuân tươi.
Chim bay ngàn điểm trắng,
Dưới sông lặn mặt trời.
Đâu cứ người đày ải,
Không việc phải ốm đau.
Thử đến gần ngắm lại,
Ít có kẻ không sầu.

Dạ Tuyết

Bài thơ "Dạ Tuyết" của Bạch Cư Dị

夜雪

已訝衾枕冷,
復見窗戶明。
夜深知雪重,
時聞折竹聲。

Phiên âm:

Dĩ nhạ khâm chẩm lãnh,
Phục kiến song hộ minh.
Dạ thâm tri tuyết trọng,
Thì văn chiết trúc thanh.

Dịch thơ:

Lạ lùng chăn gối lạnh
Lại cửa sáng long lanh
Càng khuya tuyết càng nặng
Nghe tiếng trúc gãy cành

Mại Thán Ông

Tiếng Hán:

賣炭翁

賣炭翁,
伐薪燒炭南山中。
滿面塵灰煙火色,
兩鬢蒼蒼十指黑。
賣炭得錢何所營,
身上衣裳口中食。
可憐身上衣正單,
心憂炭賤願天寒。
夜來城上一尺雪,
曉駕炭車輾冰轍。
牛困人飢日已高,
市南門外泥中歇。
翩翩兩騎來是誰,
黃衣使者白衫兒。
手把文書口稱敕,
迴車叱牛牽向北。
一車炭,千餘斤,
官使驅將惜不得。
半匹紅紗一丈綾,
繫向牛頭充炭直。

Phiên âm:

Mại thán ông!
Phạt tân, thiên thán Nam Sơn trung,
Mãn diện trần hôi yên hoả sắc,
Lưỡng mấn thương thương, thập chỉ hắc,
Mại thán đắc tiền hà sở doanh?
Thân thượng y thường, khẩu trung thực,
Khả liên thân thượng y chính đan.
Tâm ưu thán tiện nguyện thiên hàn.
Dạ lai thành ngoại nhất xích tuyết,
Hiểu giá thán xa triển băng triệt.
Ngưu khốn, nhân cơ, nhật dĩ cao,
Thị nam môn ngoại nê trung yết.
Lưỡng kị phiên phiên lai thị thuỳ?
Hoàng y sứ giả bạch sam nhi.
Thủ bả văn thư, khẩu xưng: “sắc”!
Hồi xa sất ngưu khiên hướng Bắc.
Nhất xa thán trọng thiên dư cân,
Cung sứ khu tương tích bất đắc.
Bán thất hồng sa, nhất trượng lăng
Hệ hướng ngưu đầu sung thán trị.

Dịch thơ:

Ông bán than!
Đốt củi đốt than trong núi Nam,
Mặt mày tro bụi khói lửa ám,
Mái tóc hoa râm tay đen ngòm!
Bán than được tiền ông tính toán:
Phần sắm quần áo, phần gạo cơm.
Thương thay! Trên mình áo mỏng dính,
Lòng lo than rẻ, mong trời lạnh!
Đêm qua ngoài thành tuyết hàng thước,
Sớm đánh xe than, rãnh băng ướt,
Trâu mỏi, người đói, mặt trời cao,
Bùn lầy cửa Nam tạm nghỉ bước.
Băng băng đôi ngựa, kìa ai nhỉ?
Áo vàng, áo trắng hai quan thị.
Tay giơ giấy tờ, mồm quát: “Sắc!”
Quay xe hò trâu kéo về bắc.
Một xe than nặng hơn ngàn cân,
Người nhà vua lấy, tiếc chẳng được.
Nửa tấm lụa hồng, một trượng the,
Buộc lên sừng trâu, không lấy? Mặc!

Độc Lão Tử

Tiếng Hán:

讀老子

言者不知知者默,
此語吾聞於老君。
若道老君是知者,
緣何自著五千文?

Phiên âm:

Ngôn giả bất tri, tri giả mặc,
Thử ngữ ngô văn ư Lão quân.
Nhược đạo Lão quân thị tri giả,
Duyên hà tự trước ngũ thiên văn?

Dịch thơ:

Nói thời không biết, biết không nói,
Lời Lão quân truyền ta vẫn ghi.
Nếu thật Lão quân là biết đạo,
Viết năm nghìn chữ để làm chi ?

Ca Vũ

Tiếng Hán:

歌舞

秦中歲雲暮,
大雪滿皇州。
雪中退朝者,
朱紫盡公侯。
貴有風雲興,
富無饑寒憂。
所營唯第宅,
所務在追遊。
朱輪車馬客,
紅燭歌舞樓。
歡酣促密坐,
醉暖脫重裘。
秋官為主人,
廷尉居上頭。
日中為樂飲,
夜半不能休。
豈知閿鄉獄,
中有凍死囚。

Phiên âm:

Tần Trung tuế vãn mộ,
Đại tuyết mãn Hoàng châu.
Tuyết trung thoái triều giả,
Chu tử tận công hầu.
Quý hữu phong tuyết hứng,
Phú vô cơ hàn ưu.
Sở doanh duy đệ trạch,
Sở vụ tại truy du.
Chu môn xa mã khách,
Hồng chúc ca vũ lâu.
Hoan hàm xúc mật toạ,
Túy noãn thoát trùng cừu.
Thu quan vi chủ nhân,
Đình uý cư thượng đầu.
Nhật trung vi lạc ẩm,
Dạ bán bất năng hưu.
Khởi tri Văn Hương ngục,
Trung hữu đống tử tù.

Dịch thơ:

Đất Tần năm sắp hết
Kinh đô tuyết lớn rơi
Lui chầu về trong tuyết
Toàn quan áo tía thôi
Phú quý không lo rét
Gió tuyết lại càng vui
Chỉ lo xây phủ đệ
Chỉ nghĩ chuyện chơi bời
Cửa son xe ngựa đỗ
Ca lâu ánh đuốc soi
Vui say ngồi san sát
Rượu nực cởi áo ngoài
Thu quan làm chủ tọa
Đình úy ghế trên ngồi
Suốt trưa ngày yến tiệc
Nửa đêm rồi chưa ngơi
Ngục Văn Hương nào biết
Chết rét đã bao người!

Dạ Vũ

Tiếng Hán:

夜雨

早蛩啼復歇,
殘燈滅又明。
隔窗知夜雨,
芭蕉先有聲。

Phiên âm:

Tảo cung đề phục yết,
Tàn đăng diệt hựu minh.
Cách song tri dạ vũ,
Ba tiêu tiên hữu thanh.

Dịch thơ:

Dế giun rên mỏi lại ngừng,
Đèn tàn muốn tắt lại bừng sáng ra.
Cách song đêm biết mưa sa,
Tiếng nghe lộp độp chăng là tàu tiêu.

Khuê Oán Từ Kỳ 1

Tiếng Hán:

閨怨詞其一

朝憎鶯百囀,
夜妒燕雙棲。
不慣經春別,
誰知到曉啼。

Phiên âm:

Triêu tăng oanh bách chuyển,
Dạ đố yến song thê.
Bất quán kinh xuân biệt,
Duy tri đáo hiểu đề.

Dịch thơ:

Ríu rít tan sương ghét cái oanh,
Đêm ghen cặp én đỗ chung cành
Chẳng quen ly biệt xuân qua trải,
Chỉ biết kêu hoài lúc sang banh.

Dạ Tranh

Bài thơ "Dạ Tranh" của Bạch Cư Dị

Tiếng Hán:

夜箏

紫袖紅弦明月中,
自彈自感闇低容。
弦凝指咽聲停處,
別有深情一萬重。

Phiên âm:

Tử tụ hồng huyền minh nguyệt trung,
Tự đàn tự cảm ám đê dung.
Huyền ngưng chỉ yết thanh đình xứ,
Biệt hữu thâm tình nhất vạn trùng.

Dịch thơ:

Áo tía dây hồng dưới bóng trăng,
Tự đàn tự cảm thẹn nghi dung.
Dây ngừng ngón nghẹn cùng âm dứt,
Ly biệt tình sâu tới vạn trùng.

Quan Ngải Mạch

Tiếng Hán

觀刈麥

田家少閒月,
五月人倍忙。
夜來南風起,
小麥覆隴黃。
婦姑荷簞食,
童稚攜壺槳。
相隨餉田去,
丁壯在南岡。
足蒸暑土氣,
背灼炎天光。
力盡不知熱,
但惜夏日長。
復有貧婦人,
抱子在其旁。
右手秉遺穗,
左臂懸敝筐。
聽其相顧言,
聞者為悲傷。
家田輸稅盡,
拾此充饑腸。
今我何功德?
曾不事農桑。
吏祿三百石,
歲晏有餘糧。
念此私自愧,
盡日不能忘,

Phiên âm:

Điền gia thiểu nhàn nguyệt,
Ngũ nguyệt nhân bội mang.
Dạ lai nam phong khởi,
Tiểu mạch phú lũng hoàng.
Phu cô hạ đan tự,
Đồng trĩ huề hổ tương.
Tương tuỳ hướng điển khứ
Đinh tráng tại nam cương
Túc chưng thử thổ khí,
Bối chước viêm thiên quang.
Lực tận bất tri nhiệt,
Đãn tích hạ nhật trường.
Phục hữu bần phụ nhân,
Bão tử tại kì bàng.
Hữu thủ bỉnh di tuệ,
Tả tí huyền tệ khuông.
Thính kì tương cố ngôn,
Văn giả vị bi thương.
Gia điền thâu thuế tận,
Thập thử sung cơ trường.
Kim ngã hà công đức,
Tằng bất sự nông tang?
Lại lộc tam bách thạch,
Tuế án hữu dư lương.
Niệm thử tư tự quí,
Tận nhật bất năng vương.

Dịch thơ

Nhà nông ít tháng rỗi,
Tháng năm càng rộn ràng.
Đêm qua gió nam thổi,
Lúa chín lợp bờ vàng.
Thúng cơm các bà đội,
Bầu nước trẻ con mang.
Theo đem cơm ra ruộng
Trai tráng trên gò nam.
Chân bỏng sôi hơn đất,
Cật cháy ánh mặt trời.
Mải miết không biết nóng,
Chỉ tiếc ngày hè dài.
Lại có một bà nghèo,
Ôm con đứng bên cạnh,
Tay phải nhặt bông rơi,
Tay trái đeo giỏ rách.
Thoáng chuyện bà mới góp,
Người nghe thấy bồi hồi:
“Ruộng nhà bán nộp thuế,
Mót chút để cầm hơi!”
Nay mình công cán gì?
Việc nông tang chẳng biết,
Lương hưởng ba trăm phương,
Cuối năm ăn chẳng hết.
Nghĩ lại thấy thẹn thùng,
Suốt ngày lòng bứt rứt.

Cảm Kính

感鏡

美人與我別,
留鏡在匣中。
自從花顏去,
秋水無芙蓉。
經年不開匣,
紅埃覆青銅。
今朝一拂拭,
自照憔悴容。
照罷重惆悵,
背有雙盤龍。

Phiên âm:

Mỹ nhân dữ ngã biệt
Lưu kính tại hạp trung
Tự tòng hoa nhan khứ
Thu thuỷ vô phù dung
Kinh niên bất khai pháp
Hồng ai phú thanh đồng
Kim triêu nhất phất phức
Tự cố tiều tuỵ dung
Chiếu bãi trùng trù trướng
Bối hữu song bàn long

Dịch thơ:

Người đẹp cách biệt ta
Quên gương trong hộp ngà
Từ mặt hoa xa cách
Hồ thu, sen chẳng hoa.
Suốt năm không mở xem
Bụi hồng phủ xanh thêm
Sáng nay lau chùi lại
Soi thấy mình hom hem.
Xem xong lại ngậm ngùi
Sau gương rồng cuộn đôi

Lạc Dương Tảo Xuân

Tiếng Hán:

洛陽早春

物華春意尚遲回,
賴有東風晝夜催。
寒縋柳腰收未得,
暖熏花口噤初開。
欲披雲霧聯襟去,
先喜瓊琚入袖來。
久病長齋詩老退,
爭禁年少洛陽才。

Phiên âm:

Vật hoa xuân ý thượng trì hồi,
Lại hữu đông phong trú dạ thôi.
Hàn trúy liễu yêu thu vị đắc,
Noãn huân hoa khẩu cấm sơ khai.
Dục phi vân vụ liên khâm khứ,
Tiên hỉ quỳnh cư nhập tụ lai.
Cửu bệnh trường trai thi lão thoái,
Tranh câm niên thiếu Lạc Dương tài.

Dịch thơ:

Ý xuân hoa cảnh trở về
Gió đông khởi động tràn trề ngày đêm
Lạnh không trói nỗi liễu mềm
Hoa theo hơi ấm nở im bên cành
Bay bay mây khói liên thành
Thơm rơi tay áo thoáng mành quỳnh hương
Thơ cùn thân bệnh chay trường
Làm sao tranh nổi Lạc Dương anh tài.

Trường Hận Ca

Bài thơ "Trường hận ca" của Bạch Cư Dị

Tiếng Hán:

長恨歌

漢皇重色思傾國,
御宇多年求不得。
楊家有女初長成,
養在深閨人未識。
天生麗質難自棄,
一朝選在君王側。
回眸一笑百媚生,
六宮粉黛無顏色。
春寒賜浴華清池,
溫泉水滑洗凝脂。
侍兒扶起嬌無力,
始是新承恩澤時。
雲鬢花顏金步搖,
芙蓉帳暖度春宵。
春宵苦短日高起,
從此君王不早朝。
承歡侍宴無閑暇,
春從春遊夜專夜。
後宮佳麗三千人,
三千寵愛在一身。
金星妝成嬌侍夜,
玉樓宴罷醉和春。
姊妹弟兄皆列士,
可憐光彩生門戶。
遂令天下父母心,
不重生男重生女。
驪宮高處入青雲,
仙樂風飄處處聞。
緩歌慢舞凝絲竹,
盡日君王看不足。
漁陽鼙鼓動地來,
驚破霓裳羽衣曲。
九重城闕煙塵生,
千乘萬騎西南行。
翠華搖搖行復止,
西出都門百餘里。
六軍不發無奈何,
宛轉蛾眉馬前死。
花鈿委地無人收,
翠翹金雀玉搔頭。
君王掩面救不得,
回看血淚相和流。
黃埃散漫風蕭索,
雲棧縈紆登劍閣。
峨嵋山下少人行,
旌旗無光日色薄。
蜀江水碧蜀山青,
聖主朝朝暮暮情。
行宮見月傷心色,
夜雨聞鈴腸斷聲。
天旋地轉迴龍馭,
到此躊躇不能去。
馬嵬坡下泥土中,
不見玉顏空死處。
君臣相顧盡霑衣,
東望都門信馬歸。
歸來池苑皆依舊,
太液芙蓉未央柳。
芙蓉如面柳如眉,
對此如何不淚垂。
春風桃李花開日,
秋雨梧桐葉落時。
西宮南內多秋草,
落葉滿階紅不掃。
梨園子弟白髮新,
椒房阿監青娥老。
夕殿螢飛思悄然,
孤燈挑盡未成眠。
遲遲鐘鼓初長夜,
耿耿星河欲曙天。
鴛鴦瓦冷霜華重,
翡翠衾寒誰與共。
悠悠生死別經年,
魂魄不曾來入夢。
臨邛道士鴻都客,
能以精誠致魂魄。
為感君王輾轉思,
遂教方士殷勤覓。
排空馭氣奔如電,
升天入地求之遍。
上窮碧落下黃泉,
兩處茫茫皆不見。
忽聞海上有仙山,
山在虛無縹緲間。
樓閣玲瓏五雲起,
其中綽約多仙子。
中有一人字太真,
雪膚花貌參差是。
金闕西廂叩玉扃,
轉教小玉報雙成。
聞道漢家天子使,
九華帳裡夢魂驚。
攬衣推枕起徘徊,
珠箔銀屏迤邐開。
雲鬢半偏新睡覺,
花冠不整下堂來。
風吹仙袂飄飄舉,
猶似霓裳羽衣舞。
玉容寂寞淚闌干,
梨花一枝春帶雨。
含情凝睇謝君王,
一別音容兩渺茫。
昭陽殿裡恩愛絕,
蓬萊宮中日月長。
回頭下望人寰處,
不見長安見塵霧。
唯將舊物表深情,
鈿合金釵寄將去。
釵留一股合一扇,
釵擘黃金合分鈿。
但教心似金鈿堅,
天上人間會相見。
臨別殷勤重寄詞,
詞中有誓兩心知。
七月七日長生殿,
夜半無人私語時。
在天願作比翼鳥,
在地願為連理枝。
天長地久有時盡,
此恨綿綿無絕期。

Phiên âm:

Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc,
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc.
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành,
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức.
Thiên sinh lệ chất nan tự khí,
Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc.
Hồi mâu nhất tiếu bách mị sinh,
Lục cung phấn đại vô nhan sắc.
Xuân hàn tứ dục Hoa Thanh trì,
Ôn tuyền thuỷ hoạt tẩy ngưng chi.
Thị nhi phù khởi kiều vô lực,
Thuỷ thị tân thừa ân trạch thì.
Vân mấn hoa nhan kim bộ dao,
Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu.
Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi,
Tòng thử quân vương bất tảo triều.
Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ,
Xuân tòng xuân du dạ chuyển dạ.
Hậu cung giai lệ tam thiên nhân,
Tam thiên sủng ái tại nhất nhân.
Kim ốc trang thành kiều thị dạ,
Ngọc lâu yến bãi tuý hoà xuân.
Tỷ muội huynh đệ giai liệt thổ,
Khả liên quang thái sinh môn hộ.
Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm,
Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ.
Ly cung cao xứ nhập thanh vân,
Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn.
Hoãn ca mạn vũ ngưng ty trúc,
Tận nhật quân vương khan bất túc.
Ngư Dương bề cổ động địa lai,
Kinh phá “Nghê thường vũ y” khúc.
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh,
Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành.
Thuý hoa dao dao hành phục chỉ,
Tây xuất đô môn bách dư lý.
Lục quân bất phát vô nại hà,
Uyển chuyển nga mi mã tiền tử.
Hoa điền uỷ địa vô nhân thu,
Thuý kiều, kim tước, ngọc tao đầu.
Quân vương yểm diện cứu bất đắc,
Hồi khan huyết lệ tương hoà lưu.
Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác,
Vân sạn oanh vu đăng Kiếm Các.
Nga My sơn hạ thiểu nhân hành,
Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc.
Thục giang thuỷ bích, Thục sơn thanh,
Thánh chủ triêu triêu mộ mộ tình.
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc,
Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh.
Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự,
Đáo thử trừ trừ bất nhẫn khứ.
Mã Ngôi pha hạ nê thổ trung,
Bất kiến ngọc nhan không tử xứ.
Quân thần tương cố tận triêm y,
Đông vọng đô môn tín mã quy.
Quy lai trì uyển giai y cựu,
Thái Dịch phù dung, Vị Ương liễu;
Phù dung như diện liễu như mi,
Đối thử như hà bất lệ thuỳ.
Xuân phong đào lý hoa khai nhật,
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì.
Tây Cung, Nam Nội đa thu thảo,
Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo.
Lê Viên đệ tử bạch phát tân,
Tiêu phòng a giám thanh nga lão.
Tịch điện huỳnh phi tứ tiễu nhiên,
Cô đăng khiêu tận vị thành miên.
Trì trì chung cổ sơ trường dạ,
Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên.
Uyên ương ngoã lãnh sương hoa trọng,
Phỉ thuỷ khâm hàn thuỳ dữ cộng.
Du du sinh tử biệt kinh niên,
Hồn phách bất tằng lai nhập mộng.
Lâm Cùng đạo sĩ Hồng Đô khách,
Năng dĩ tinh thành trí hồn phách.
Vị cảm quân vương triển chuyển tư,
Toại giao phương sĩ ân cần mịch.
Bài không ngự khí bôn như điện,
Thăng thiên nhập địa cầu chi biến.
Thượng cùng bích lạc, hạ hoàng tuyền,
Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến.
Hốt văn hải thượng hữu tiên sơn,
Sơn tại hư vô phiếu diểu gian.
Lâu các linh lung ngũ vân khởi,
Kỳ trung xước ước đa tiên tử.
Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân,
Tuyết phu hoa mạo sâm si thị.
Kim khuyết tây sương khấu ngọc quynh,
Chuyển giao Tiểu Ngọc, báo Song Thành.
Văn đạo Hán gia thiên tử sứ,
Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh.
Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi,
Châu bạc ngân bình di lý khai.
Vân kết bán thiên tân thuỵ giác,
Hoa quan bất chỉnh há đường lai.
Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử,
Do tự “Nghê thường vũ y” vũ.
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can,
Lê hoa nhất chi xuân đới vũ.
Hàm tình ngưng thế tạ quân vương,
Nhất biệt âm dung lưỡng diểu mang!
Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt,
Bồng Lai cung trung nhật nguyệt trường.
Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ,
Bất kiến Trường An kiến trần vụ.
Duy tương cựu vật biểu thâm tình,
Điến hạp kim hoa ký tương khứ.
Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến,
Thoa phách hoàng kim hạp phân điến.
Đãn giao tâm tự kim điến kiên,
Thiên thượng nhân gian hội tương kiến.
Lâm biệt ân cần trung ký từ,
Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri:
Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh điện,
Dạ bán vô nhân tư ngữ thì.
“Tại thiên nguyệt tác tỷ dực điểu,
Tại địa nguyện vi liên lý chi.”
Thiên trường địa cửu hữu thì tận,
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ.

Dịch thơ:

Vua Hán ước mơ người quốc sắc,
Bao năm tìm kiếm luống công toi.
Họ Dương có gái hoa đương nở,
Khoá kín buồng xuân, hận lẻ loi.
Sắc đẹp trời sinh khôn bỏ phí,
Ngai vàng một sớm được ngồi chung.
Một cười khêu gợi trăm mê luyến,
Xoá mất hồng nhan ở sáu cung.
Xuân lạnh, Hoa thanh hồ sẵn đó,
Suối tuôn dòng ấm tắm hoa khôi,
Vua ban ân trạch, con hầu nịnh
Sáng dậy phò nâng ẻo lả ngồi.
Ngày dạo sen vàng bay tóc mượt,
Đêm xuân trướng ấm ủ hoa đào.
Mặt trời lên vội, đêm xuân ngắn,
Từ đấy nhà vua nhãng thị trào.
Yến ẩm vui vầy thôi chẳng ngớt;
Đêm đêm xuân tứ lại xuân tình.
Ba ngàn cung nữ, ba ngàn mối,
Sủng ái từ đây thanh hầu thánh chúa,
Anh em nhuần gội ơn mưa móc,
Nhà cửa hàn vi rạng rỡ lây.
Thiên hạ đem lòng mơ phú quý,
Khinh trai trọng gái kể từ đây.
Ly Cung cao tít lồng mây biếc,
Tiên nhạc mê hồn vẳng bốn phương.
Sớm tối ca êm hoà múa dịu
Não nùng tơ trúc đắm quân vương.
Ầm ầm chiêng trống Ngư Dương dấy,
Khúc hát Nghê Thường hoảng vỡ tan.
Thành khuyết xôn xao mù khói bụi,
Xe rồng rong ruổi hướng tây nam.
Khi đi khi nghỉ, cờ phơ phất.
Trăm dặm đường Tây bước gập ghềnh.
Quân sĩ căm hờn, không chịu tiến:
Mày ngài trước ngựa phải hy sinh!
Hoa tai bỏ đất, không người nhặt,
Trăm ngọc thoa vàng lả tả rơi.
Đứt ruột quân vương đành giấu mặt.
Ngoảnh nhìn máu chảy lệ ràn trôi.
Bụi vàng tản mác đìu hiu gió,
Kiếm Các cheo leo sạn đạo dài.
Chân núi Nga Mi buồn bã vắng;
Tinh kỳ nhợt thếch, mặt trời phai.
Nước non Ba Thục xanh xanh biếc,
Sớm tối nhà vua trĩu nhớ nhung.
Quạnh quẽ hành cung, trăng gợi thảm,
Đêm mưa chuông vắng tiếng đau lòng.
Trời xoay đất chuyển quày long ngự,
Chốn cũ ngừng thăm dạ ngẩn ngơ.
Mặt ngọc giờ đâu? trơ tử địa,
Mã ngôi ảm đảm đất bùn nhơ,
Vua tôi nhỏ lệ đầm bâu áo,
Kinh khuyết vời trông tế ngựa về,
Về tới, vườn ao như thuở trước.
Vị Ương lá liễu giống mày ai,
Phù dung Thái Dịch trông như mặt.
Cảnh cũ tình xưa giọt lệ rơi!
Đào lý nở hoa xuân gió thoảng,
Mưa thu đổ rụng lá ngô đồng.
Tây cung Nam nội đầy thu thảo,
Phủ kín thềm hoang lá úa hồng.
Con hát Lê viên sầu tóc bạc,
Tiêu phòng thái giam hận răng long.
Tối nhìn đom đóm bay le lói.
Khêu cạn đèn khuya giấc chửa an.
Dằng dặc năm canh rền trống điểm,
Sông Ngân lấp lánh báo đêm tàn.
Mái lầu thánh thót rơi sương lạnh,
Đắp chiếc mền đơn, nhớ độ nào…
Sống thác bao năm đằng đẵng biệt,
Hương hồn sao chẳng hiển chiêm bao!
Lâm Cùng may có tay phương sĩ,
Một phép chiêu hồn dậy tiếng tăm,
Thương cảm quân vương trằn trọc nhớ,
Mới sai đạo sĩ cố truy tầm.
Cỡi mây lướt gió nhanh như chớp,
Lên tận trời cao xuống đất sâu.
Bích Lạ, Hoàng Thuyền đi khắp chỗ,
Mênh mông nào thấy bóng ai đâu!
Chợt nghe ngoài biển nơi không ảo,
Lơ lửng mơ hồ có núi tiên.
Cung điện chập chờn mây ngũ sắc.
Tiên nga tha thướt dạo trong đền,
Mặt hoa da tuyết riêng nàng nọ,
Phảng phất hình dung, tợ Thái Chân.
Gõ cửa hiên tây vàng rực rỡ,
Báo tin Tiểu Ngọc, nhắn Song Thành.
Nghe tin sứ giả đời vua Hán
Trướng gấm hồn mơ bỗng giựt mình.
Dã dượi ngồi lên, thu vạt áo,
Rèm châu bình lạc, mở lần ra.
Tóc mây lệch nửa, nghiêng nghiêng mũ
Bước xuống thềm loan, dáng thẫn thờ.
Tay áo gió lay bay phất phới,
Tưởng như đang múa Nghê Thường xưa.
Âm thầm mặt ngọc lưa thưa lệ,
In một cành lê điểm điểm mưa.
Ngầm sầu ngưng lệ, tạ quân vương,
Từ thuở âm dương biệt mỗi phương.
Trong điện Chiêu Dương, ân ái tuyệt,
Bồng lai tiên cảnh, tháng năm trường.
Ngoảnh đầu trông xuống nơi trần thế,
Chẳng thấy Trường An, thấy bụi mù.
Gởi tỏ tình tâm trong vật cũ,
Thoa vàng hộp đá kính dâng vua.
Hộp đá thoa vàng đem bẻ nửa,
Nửa thì giữ lại, nửa đưa trao,
Lòng sao chỉ nguyện như vàng đá,
Hạ giới thiên đình sẽ gặp nhau.
Lúc sắp lui về còn nhắn nhủ,
Nhắc lời thệ ước giữa đôi bên.
Năm xưa, trùng thất, Trường Sinh điện.
Vắng vẻ đêm khuya thủ thỉ truyền:
“Trên trời nguyện hoá chim liền cánh,
Dưới đất làm cây nhánh dính liền”.
Trời đất lâu bền rồi sẽ tận,
Hận này muôn thuở vẫn miên miên.

Liễu Lăng

Tiếng Hán:

繚綾

繚綾繚綾何所似,
不似羅綃與紈綺。
應似天台山上月明前,
四十五尺瀑布泉。
中有文章又奇絕,
地鋪白煙花簇雪。
織者何人衣者誰,
越溪寒女漢宮姬。
去年中使宣口敕,
天上取樣人間織。
織為雲外秋雁行,
染作江南春水色。
廣裁衫袖長制裙,
金鬥熨波刀翦紋。
異彩奇文相隱映,
轉側看花花不定。
昭陽舞人恩正深,
春衣一對直千金。
汗沾粉污不再著,
曳土蹋泥無惜心。
繚綾織成費功績,
莫比尋常繒與帛。
絲細繰多女手疼,
扎扎千聲不盈尺。
昭陽殿裏歌舞人,
若見織時應也惜。

Phiên âm:

Liễu lăng, liễu lăng hà sở tự,
Bất tự la tiêu dữ hoàn ỷ.
Ưng tự Thiên Thai sơn thượng nguyệt minh tiền,
Tứ thập ngũ xích bộc bố tuyền.
Trung hữu văn chương hựu kỳ tuyệt,
Địa phô bạch yên hoa thốc tuyết.
Chức giả hà nhân y giả thuỳ,
Việt khê hàn nữ Hán cung cơ.
Khứ niên trung sứ tuyên khẩu sắc,
Thiên thượng thủ dạng nhân gian chức.
Chức vi vân ngoại thu nhạn hành,
Nhiễm tác Giang Nam xuân thuỷ sắc.
Quảng tài sam tụ trường chế quần,
Kim đấu uất ba đao tiễn văn.
Dị thái kỳ văn tương ẩn ánh,
Chuyển trắc khán hoa hoa bất định.
Chiêu Dương vũ nhân ân chính thâm,
Xuân y nhất đối trực thiên kim.
Hãn triêm phấn ô bất tái trước,
Duệ thổ tháp nê vô tích tâm.
Liễu lăng chức thành phí công tích,
Mạc tỷ tầm thường tăng dữ bạch.
Ty tế sào đa nữ thủ đông,
Trát trát thiên thanh bất doanh xích.
Chiêu Dương điện lý ca vũ nhân,
Nhược kiến chức thì ưng dã tích.

Dịch thơ:

Thấy chăng ai, vẻ màu lụa nõn?
Chẳng giống the, lụa mỏng cũng không.
Núi Thiên Thai, trước ánh trăng,
Thác cao trắng xoá, bốn lăm thước dài.
Hoa văn in, đẹp tươi lạ mắt,
Như khói lan, hoa tuyết bay bay.
Lụa ai dệt? Áo cho ai?
Dệt là gái Việt, áo may phi tần.
Năm ngoái lệnh vua ban, sứ đến,
Mẫu từ trời, thợ kén trong dân.
Nhạn bay, ngoài cõi mây vần,
Giang Nam, màu nước mùa xuân nhuộm mềm.
Tay áo rộng, may quần đúng kiểu,
Sáng sao Kim, sao Đẩu vào đêm.
Hoa lay khi lụa soi nghiêng,
Chiêu Dương người múa, ơn trên cao dầy.
Nghìn vàng tấm áo này nên giá,
Phấn nhoè, mồ hôi vã đắng cay.
Dầm bùn đất, vẫn mê say,
Dệt nên lụa nõn, đêm ngày gắng công.
Những tơ lụa tầm thường khó sánh,
Tay nhức vì sợi mảnh, khâu dầy.
Chiêu Dương múa hát là ai?
Thấy người dệt, hẳn buông lời thở than.

Vậy là các bạn vừa được tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Bạch Cư Dị cùng tuyển tập thơ Bạch Cư Dị "bất tử" cùng thời gian. Hi vọng, sau khi chia sẻ cùng bài viết bạn có thêm nhiều trải nghiệm khó quên. Cảm ơn các bạn đã đồng hành cùng bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết sau !

>>>ĐỪNG BỎ LỠ: Thơ Đỗ Phủ - tuyển tập những bài thơ bất hủ của "Thi thánh"

BÀI VIẾT LIÊN QUAN